Maria Cao Thị Oanh STB-K3
I.
Dẫn nhập
Đã làm người, ai cũng phải chết (Dt 9, 27). Cái chết đụng chạm đến tất cả
mọi người, thật gần gũi nhưng cũng thật huyền nhiệm. Thế nhưng, sự chết là gì?
Tại sao tôi phải chết? Chết có ý nghĩa gì không? Điều gì sẽ xảy ra sau khi tôi
chết? Tôi sẽ hy vọng vào ai, vào điều gì khi phải đối diện với sự chết? Thật vậy,
khi đứng trước sinh lão bệnh tử của kiếp người, đã có nhiều người cảm thấy đau
khổ, sợ hãi vì nghĩ rằng chết là hết, là chấm dứt tất cả. Thế nhưng trong niềm
tin Kitô giáo, chết không phải là hết nhưng là một cách để phát sinh sự sống mới,
như Đức Giêsu đã nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga
12, 24). Như thế, sự chết là điều kiện nhất thiết để triển nở và thay đổi
cách thái hiện hữu. Dựa trên niềm hy vọng ấy, người viết xin trình bày chủ đề:
“Niềm hy vọng cánh chung trong mầu nhiệm sự chết theo nhãn quan Kitô giáo” qua
bốn điểm chính: Thứ nhất, sự chết là gì?. Thứ hai, quan niệm sự chết qua các tư
tưởng triết học. Thứ ba, quan niệm sự chết trong nhãn quan Kitô giáo. Sau cùng,
niềm hy vọng Kitô giáo trong mầu nhiệm sự chết.
II.
Nội dung
1.
Chết là gì?
Theo Kinh Thánh, chết là hậu
quả của tội: sự chết phần xác và sự chết phần hồn (x. Rm 5, 12; 8, 5-6). Theo sách
Giáo Lý Công Giáo, sự chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế của con người, kết
thúc thời gian của ân sủng, của lòng thương xót mà Thiên Chúa ban cho con người.[1] Thật vậy, cuộc đời của
mỗi người được tính bằng thời gian. Trong khoảng thời gian đó, con người thay đổi,
già đi rồi chết. Thực tại này cho chúng ta một cái nhìn bức thiết và hiện sinh
hơn về cuộc sống.
Theo nghĩa phổ thông, sự chết
xảy ra khi thân xác con người mất khả năng sống và mất khả năng hoạt động, chấm dứt cuộc sống
trần gian.
2.
Tư tưởng triết học về
sự chết
2.1.
Tư tưởng Đông Phương
về sự chết
Tư tưởng Đông Phương diễn đạt rằng chết không phải là hết, nhưng
sau cái chết, còn có một đời sống mới nơi thế giới bên kia.[3] Những tư tưởng này
được thể hiện qua hai điểm:
Thứ nhất, quan niệm
sự chết trong văn hóa - tín ngưỡng Việt Nam: Người Việt thường bảo rằng:
“Sinh thuận tử an”, “hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Vì thế, trong
thâm tâm họ tin rằng chết không phải là hết nhưng là quy thiên[4], với họ sinh ký tử
quy - sống gửi thác về.
Thứ hai, trong Ấn Giáo và Phật Giáo: có nhiều quan điểm tư
tưởng khác biệt về vận mạng con người, về tâm thân, tâm thức và linh hồn. Nhưng
cả hai quan niệm rằng chết không hết, nhưng con người bị ràng buộc bởi vòng
luân hồi sinh tử. Sau khi trải qua cái chết, con người bước vào kiếp sống khác:
linh hồn nhận được một thân xác mới trong mỗi lần tái sinh; kiếp sống mới tốt đẹp
hay tồi tệ hơn kiếp trước thì tùy thuộc vào cách sống của người đó. Thuyết luân
hồi mở ra cho con người cánh cửa hy vọng, nếu người đó trót lỗi lầm hay làm điều
ác ở đời này thì đời sau còn có cơ hội để chuộc lại tội lỗi đó[5].
2.2.
Tư tưởng triết học
Tây Phương về sự chết
Với tư tưởng Hy Lạp Cổ Đại: có ba quan điểm khác
nhau. Trước tiên, tư tưởng của Epicurus (341-270 BC) cho rằng, chết thì không
quan trọng, ông nói: “Khi nào tôi còn hiện hữu, cái chết không có và bất cứ lúc
nào nó có, thì chúng ta không hiện hữu”[6]. Với Pythagoras
(570-415 BC), linh hồn là yếu tố linh thiêng, bất tử không lệ thuộc vào thân
xác phải chết; cái chết chỉ đụng chạm đến thân xác mà thôi, nên không cần phải
lo ngại về cái chết. Sau cùng, Platon (428-348 BC) quan niệm, khi còn ở trong
thân xác hay hư hoại, con người không bất tử, chỉ khi chết, linh hồn con người
mới đạt tới tình trạng bất tử.[7]
Theo tư tưởng Tây Phương hiện
đại: Khác với Thời Trung Cổ, Triết học Tây Phương hiện đại có khuynh hướng
tách khỏi ảnh hưởng của Kitô giáo. Cụ thể với Jean Paul Sartre, ông cho rằng cuộc
sống con người là một hành trình từ hư vô đến hư vô. Con người bị ném vào cuộc
đời, bị đe dọa bởi những thực tại. Còn đối với Martin Heidegger và Karl Jaspers
thì cho rằng, mỗi ngày con người ý thức mình sẽ chết nên con người sống tròn đầy
trong từng giây phút. Chính khi sống trọn ý nghĩa cuộc sống, con người mới bước
tới huyền nhiệm của cái vô hạn mở ra trước mắt họ sau ngưỡng cửa sự chết.[8]
3.
Quan niệm sự chết
trong nhãn quan Kitô giáo
Trước tiên, sự chết dưới ánh sáng của Cựu Ước
Chúng ta thấy rằng, cái chết
không chỉ đơn thuần là một quy luật tự nhiên nhưng còn là “hệ quả” của tội lỗi,
do sự ghen tương của ma quỷ đã đưa cái chết vào trần gian (x. Kn 2, 23-24), gây
ra sự đổ vỡ trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với tha nhân. Thật
vậy, trong công trình sáng tạo, Thiên Chúa không muốn con người phải chết nhưng
muốn con người được “sống, hiện hữu và hoạt động” trong ân nghĩa với Người. Thế
nhưng vì con người bất tuân, không vâng phục, vi phạm lệnh truyền của Thiên
Chúa (St 2,17), cho nên con người bị kết án “tử hình”, phải chết, phải xa cách
Thiên Chúa. Thật vậy, cái chết là một cái gì đó bất thường, không thuộc về bản
chất sáng tạo của Thiên Chúa. Cái chết không do Chúa làm ra, Ngài không vui
thích gì khi thấy sinh vật phải chết (x. Kn 1, 13-14) vì Ngài đã tạo dựng để
chúng tồn tại. Như vậy, cái chết chính là hình phạt của tội.
Tiếp theo, sự chết dưới ánh sáng của Tân Ước
Tân Ước cũng diễn tả cách rõ
ràng nguồn gốc của cái chết là do hậu quả của tội và hình phạt đối với tội, đặc
biệt là tội nguyên tổ (x.Rm 5, 12-14). Tuy nhiên, qua cái chết trong sự vâng phục
trọn vẹn của Đức Kitô theo thánh ý Thiên Chúa (Pl 2, 8), Ngài đã đem đến cho
nhân loại nguồn ơn cứu độ, đem lại ơn giao hòa giữa con người với Thiên Chúa, đồng
thời tạo cho cái chết một giá trị chính đáng và ý nghĩa mới, ý nghĩa Cánh
Chung: chết không còn là bản án của tội lỗi nhưng trở thành hành vi của một
tình yêu tự hiến: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng
sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
Giáo hội quả quyết rằng[9]: cái chết thể xác,
điều mà con người có thể tránh nếu như không phạm tội, sẽ bị đánh bại khi Đấng
Cứu Thế toàn năng, nhân ái mang lại ơn cứu độ, ơn đã bị đánh mất vì tội lỗi (Rm
5, 21). Nếu như Ađam xưa đã làm cho cái chết thống trị, thì nay hành vi vâng phục
của Đức Kitô như Adam mới, “Đấng Cánh Chung” đem lại sự sống vĩnh hằng cho nhân
loại. Ngài đã tước bỏ quyền lực của sự chết (x. 2 Tm 1, 10), và Ngài cai trị cả
người sống cũng như kẻ chết (Dt 14, 9). Thánh Augustino nói rằng: “Nhờ cuộc khổ
nạn của Người, Chúa chúng ta đã đi từ cõi chết tới sự sống, đã mở một con đường
cho chúng ta những người tin vào sự sống lại của Người rằng chúng ta cũng có thể
vượt qua cái chết tới sự sống”.[10] Như vậy, với cái chết
của Đức Kitô, cái chết không còn là tận cùng của đời người nữa, nhưng trở thành
ngưỡng cửa dẫn đưa con người vào cõi sống đời đời và cõi sống đó
chính là niềm hy vọng, ngõ hầu làm cho con người sống ý nghĩa và tròn đầy hơn.[11]
4.
Niềm hy vọng Kitô
giáo trong mầu nhiệm sự chết của con người
Đối với Kitô giáo, cái chết
không còn là niềm đau thương, nhưng là niềm hy vọng để bước vào đời sống mới, sống
cùng và sống với Đức Giêsu.
4.1.
Cái chết – một sự gặp
gỡ giữa con người với Thiên Chúa
Sự sung mãn của cuộc gặp gỡ này
được sách Sáng Thế tường thuật lại: “như thể chiều chiều Thiên Chúa tản bộ
trong vườn để gặp gỡ hàn huyên với con người” (St 3, 8). Thế nhưng, chính tội lỗi đã gây ra sự chia cắt mối tương quan
này. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn yêu thương muốn nối lại cuộc gặp gỡ với con người. Ngài
đến gặp ta qua mỗi giai đoạn của cuộc sống, với ân huệ đức tin và phép rửa tội
mà ta lãnh nhận (Rm 6, 3), cách riêng trong Bí tích Thánh Thể là lời tiên báo
giúp ta thông dự vào cái chết và phục sinh. Ngài còn đến từng ngày qua Thánh Lễ,
để giúp chúng ta thực hiện cuộc Vượt qua từ xác thịt đến Thần Khí[12]. Trong các cuộc gặp
gỡ ấy, giờ chết là cao điểm của cuộc gặp gỡ và đó không thể là giờ cô
đơn đối với người Kitô hữu, vì Chúa Kitô đang đến, Ngài đứng ngoài và gõ cửa
(Kh 3, 20).
Hơn nữa, Công Đồng Vatican II
nêu rõ: “Đức Kitô, Đấng phục sinh của ngày chung thẩm, đứng trên bờ của lằn
ranh cõi vĩnh hằng để đón chờ, cho họ ăn và để nhận họ trước mặt Thiên Chúa”[13]. Có thể nói, chính
Thiên Chúa đã chuẩn bị để con người có cuộc gặp gỡ này. Do vậy, bắt đầu cuộc sống
này là con người bắt đầu một cuộc hành trình. Niềm tin Kitô giáo cho ta biết rằng
cuộc sống đời này chỉ là tạm bợ, quê hương đích thật của chúng ta ở trên trời
(Pl 3, 20). Như vậy, đối với người Kitô hữu, cái chết không còn là một sự kết
thúc vô nghĩa, không còn mang dáng dấp đáng sợ của tử thần, nhưng đó là nơi hội
ngộ với Đức Kitô và là nơi đầy mơ ước như thánh Phaolô: “Ao ước của tôi là ra
đi để được ở với Đức Kitô”.[14]
4.2.
Chết với Chúa Kitô,
trong Chúa Kitô và cho Chúa Kitô
Điều này được Phaolô nêu rõ: “Nếu chúng ta
cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người” (2 Tm 2,
11). Nơi cái chết của mình, Đức Kitô ôm ấp sự chết của con người: “Ngài ban
cho họ được cùng chết vào Chúa Cha với Ngài”. Cuộc sống của Kitô hữu
sẽ có kết cục thế nào đó là tùy vào sự chọn lựa và đáp ứng của ta đối với Đức
Kitô và Tin Mừng của Ngài. Nếu ta sống cho Chúa, vì Chúa, trong Chúa thì cũng sẽ
chết cho Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Và phần thưởng của những ai đã sống-chết
cho Chúa, vì Chúa, đó là sự sống đời đời, “Thật, tôi bảo thật các ông: ai
tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51). Thánh Phaolô
cũng khẳng định: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình,
cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có
chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa”
(Rm 14, 7-8). Vì vậy, đời sống người tín hữu không còn sống cho chính mình, mà
là sống đời sống mới của Đức Kitô (Rm 14, 8). Vậy khi ta chết với Chúa, trong
Chúa, cho Chúa, thì ta sẽ được hiệp nhất với Ngài.
4.3.
Cái chết - mầu nhiệm
hiệp nhất và là ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu
Cái chết không chỉ là kinh nghiệm đau khổ của
người tin vào Thiên Chúa nhưng ngang qua cái chết, người tin được nên giống Đức
Kitô và hiệp nhất với Ngài (Rm 8, 17; Pl 3, 10-11). Nhờ đó, ta được hưởng đời sống
vĩnh cửu cùng Ngài.
Thánh Phaolô diễn tả đời sống
trong thân xác này như một cuộc lưu lạc xa Chúa (1 Cr 5,
6). Vì thế, Ngài ước ao được gặp gỡ Thiên Chúa, được “ra đi” để tham dự “cuộc
hội ngộ của con cái Thiên Chúa” (Hr 12,
22-23). Đối với Ngài, cái chết là ngưỡng cửa, là điều kiện cần để người tín hữu
bước vào cuộc vượt qua này mà đi vào bàn tiệc cánh chung Nước Trời (Mt 26,
29). Giáo lý Công Giáo cũng khẳng định, chết là kết thúc cuộc hành trình lữ
khách trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để con người sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa[16] và khi đó tôi không
chết nhưng tôi bước vào cõi sống. Vì thế, cái chết trở nên điều kiện bất khả phân ly đối với con
người trên đường đi vào sự sống vĩnh cửu. Con người chỉ bước vào đời sống mới
sau khi đã qua cái chết, một cái chết không chỉ là định mệnh, nhưng còn là sự
hoàn tất Bí tích cứu độ nơi mỗi người.
4.4.
Cái chết là sự hoàn tất
bí tích cứu độ nơi người tín hữu
Chính nhờ đức tin và các bí
tích mà con người được tham dự vào cuộc khổ nạn, sự chết và phục sinh của Đức
Kitô. Qua Bí tích Thánh Tẩy, “ta được dìm vào trong cái chết của Đức Kitô” (Rm
6, 3), cùng chết và sống lại với Người. Nhờ Bí tích Rửa Tội, ta được tái sinh,
thanh tẩy trở thành con người mới, sống nhờ ân sủng và ân huệ của Thần Khí[17]. Với Bí tích Thánh
Thể, ta loan truyền cái chết của Đức Kitô là sự chết với sự sống của ta. Nếu ta
loan truyền Đức Kitô là “Đấng bị trao nộp vì ta” thì Bí tích Thánh Thể phải thực
hiện nơi ta cái chết của Người[18]. Nhờ Bí tích Giao
Hòa làm cho người Kitô hữu sống trong ân sủng này[19].
Người Kitô hữu còn tập chết
mỗi ngày khi bước vào đời sống gia đình do Bí tích Hôn Phối đem lại (Gl 12, 25).
Nhờ Bí tích Xức Dầu, trong giờ lâm tử, ta có đủ sức mạnh để đối phó với thử
thách cuối cùng của cuộc đời, và ta có thể hành động nơi mình cách hoàn toàn tự
do đó chính là chết trong sự hiệp thông với Thiên Chúa[20]. Đặc biệt đối với một
số người, khi lãnh nhận Bí tích Truyền Chức, họ mặc nơi chính con người mình Đức
Kitô Linh mục thượng phẩm và như Đức Kitô, họ tập chết
đi mỗi ngày trong con người mình để hoàn tất nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức
Kitô[21]. Như
vậy “đối với Kitô hữu, chết là kết thúc đời sống Bí tích, là khởi đầu sự viên
mãn của cuộc tái sinh nhờ Thánh Thần xức dầu và nhờ tham dự Bàn Tiệc Nước Trời
đã được tiền dự trong Bí tích Thánh Thể”[22].
III.
Kết luận
Tóm lại, chết là hậu quả của
tội. Mỗi tư tưởng triết học, tôn giáo đều có quan niệm khác nhau về cái chết, tuy
nhiên chết không phải là hết, sau cái chết còn có một đời sống mới mẻ mà con
người sẽ bước vào. Với Kitô giáo, cái chết không là tận cùng nhưng nó trở thành
ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh, là sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa,
là chết với Chúa, trong Chúa và cho Chúa. Khi đó, người Kitô hữu được hiệp nhất
với Chúa, được đi vào đời sống vĩnh cửu và hoàn tất Bí tích cứu độ. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh, đã thành hình một chân lý sự sống
cho chúng ta: hy sinh và từ bỏ là điều kiện để nhận lãnh; đau thương và chia
lìa là cách thức để tinh luyện; tan biến hay mất đi là nhân tố của sự đổi mới;
chết là nguyên nhân xúc tác để làm thành sự sống mới.
Thật vậy, sống là chấp nhận chết đi
để triển nở và phát sinh. Mỗi một hành vi khiêm tốn là chết đi một phần tính
kiêu ngạo của mình. Mỗi một hành vi can đảm là chết đi một phần tính hèn nhát của
mình. Mỗi một hành vi dịu dàng là chết đi một phần tính hung bạo của mình. Mỗi
một hành vi yêu thương là chết đi một phần tính ích kỷ của mình. Con người tội
lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa mới
xuất hiện và lớn mạnh. Thiết nghĩ, mỗi kitô hữu cần luôn biết đọc và nhận ra sứ
điệp Chúa gửi tới trong cuộc đời, biết đón nhận tất cả những đau khổ trong cuộc
đời trong tinh thần vâng phục và phó thác, luôn sống tinh thần tỉnh thức, sẵn
sàng. Sống trọn vẹn trong từng phút giây trong cuộc đời như thể hôm nay là ngày
cuối cùng của đời tôi. Ngõ hầu, khi cái chết đến, ta không sợ, không hối tiếc vì
biết chắc rằng, ở bên kia cái chết, chúng ta sẽ có sự sống mới - sự sống vĩnh cửu
với Đức Kitô.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Kinh Thánh. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
2. Ủy Ban Giáo
Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
Hà
Nội: Tôn Giáo,
2016.
3. Lm. Phaolô Vũ Chí Hỷ, SSS. Cánh Chung Học - Đạo Lý về niềm Hy Vọng
Kitô Giáo. Lưu hành nội bộ, 2022.
4. Phan Tất Thành. Niềm Hy Vọng Hồng Phúc -
Đời sống tâm linh XIV.
Hà Nội: Tôn Giáo, 2016.
5. Công Đồng Vatican II,
Hiến Chế
Gaudium Et Spes (GS).
6. Durrwell. Đức Kitô – Con Người Và Cái Chết. Médiapaul & Paulines.
7. Epicurus. “Letter to Menoeceus”. Trans. George K.Stodach.New York:
Penguin Books, 2012.
8. Phaolô Nguyễn Thái Hợp. Chút Này Làm Tin. Dấn Thân
– Houston, 2003.
9.
Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R. Cánh Chung
Học. Học Viện Thánh Anphongsô, 2017.
10. Ranifro Cantalamessa. Chúa Thánh Thần -
Ánh Sáng và Sự Sống của Giáo Hội. Phêrô Nguyễn Văn Hương chuyển ngữ. Hà Nội:
Tôn Giáo, 2017.
11. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Trung Tâm Ngôn Ngữ
và Văn Hóa Việt Nam. Đại từ điển Tiếng Việt. Chủ biên Nguyễn Như Ý. Tp.Hồ
Chí Minh: Tôn Giáo, 1999.
MỤC LỤC
I.
DẪN NHẬP
II.
NỘI DUNG
1. Chết
là gì?
2. Tư
tưởng triết học về sự chết
2.1.
Tư tưởng Đông Phương về sự
chết
2.2.
Tư tưởng triết học Tây
Phương về sự chết
3. Quan
niệm sự chết trong nhãn quan Ki-tô giáo
4. Niềm
hy vọng Ki-tô giáo trong mầu nhiệm sự chết của con người
4.1.
Cái chết – một sự gặp gỡ giữa
con người với Thiên Chúa
4.2.
Chết với Chúa Ki-tô, trong
Ki-tô và cho Ki-tô
4.3.
Cái chết – mầu nhiệm hiệp
nhất và là ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu
4.4.
Cái chết là sự hoàn tất bí
tích cứu độ nơi người tín hữu
III.
KẾT LUẬN
Durrwell, Đức Kitô – Con Người Và Cái Chết, Nxb. Médiapaul & Paulines, tr. 14-16.
Durrwell, Đức Kitô – Con Người Và Cái Chết, Nxb. Médiapaul & Paulines, tr.
20.