MỤC LỤC
CHƯƠNG
I...... DẪN NHẬP TỔNG QUÁT. 4
CHƯƠNG
II..... CHÚ GIẢI Ga 17,3. 4
1.
BỐI CẢNH BẢN VĂN.. 4
2.
DỊCH SÁT BẢN VĂN.. 5
3.
PHÊ BÌNH BẢN VĂN.. 5
4.
CẤU TRÚC BẢN VĂN.. 6
5.
ĐỌC SÁT BẢN VĂN VÀ CHÚ GIẢI 6
5.1 Sự sống đời
đời là điều đáng chú ý nghe (αὕτη) 6
5.2 Sự sống đời
đời là giây phút hiện tại (δέ) 7
5.3 Sự sống đời
đời là một chân lý, một thực tại không mơ hồ (ἐστιν) 7
5.4 Sự sống đời đời (ἡ αἰώνιος ζωὴ) 7
5.5 Điều kiện
để có được sự sống đời đời (ἵνα) 10
5.6 Họ biết (γινώσκωσιν) 10
5.7 Cha (là)
Thiên Chúa duy nhất chân thật (σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν) 11
5.7.1 Thần được con người tôn lên (θεός) 11
5.7.2 Thiên Chúa (θεός) được mặc khải trong Cựu Ước. 12
5.7.3 Thiên Chúa Đức Giêsu gọi là Cha là Thiên Chúa
duy nhất chân thật (σὲ τὸν θεὸν μόνον ἀληθινὸν) 13
5.8 Mối liên hệ độc nhất giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha
“καί”. 15
5.9 Đấng Cha đã sai đến (là) Giêsu Kitô (ὃν ἀπέστειλας Ἰησοῦν Χριστόν) 15
5.9.1 Đấng Cha sai
đến (ὃν ἀπέστειλας) 15
5.9.2 Đức Giêsu
Ki-tô (Ἰησοῦν Χριστόν) 16
5.9.2.1 Nhân loại
tính của Đức Giêsu (Ἰησοῦς) 16
5.9.2.2 Thiên tính
của Đức Giêsu được thể hiện
nơi danh xưng Kitô (Χριστός) 17
6.
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ ÁP DỤNG THỰC HÀNH.. 19
CHƯƠNG I DẪN
NHẬP TỔNG QUÁT
Tin vào Đức Giêsu Kitô đã sinh ơn ích cho người
tin, và làm cho họ trở nên con cái Thiên Chúa, được thừa hưởng sự sống đời đời.
Đây là điều xác tín của Giáo Hội Công Giáo được
dựa trên lời mặc khải của Chúa
Giêsu: “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên
Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô.”
(Ga 17,3). Như vậy, câu trích dẫn này rất đặc biệt, nền tảng, mang đầy ý nghĩa mặc khải mà Giáo Hội
Công Giáo đã chọn để đưa vào phụng vụ cho Bí tích Rửa Tội, Bí tích cửa ngõ
này.
Chính vì thế, người viết được
đánh động, có lẽ vì đây là một câu tóm tắt ý nghĩa cùng đích của đời người, của kiếp
nhân sinh. Với người viết, câu 17, 3 trở nên thật hấp dẫn và là nguồn
cảm hứng cần phải tìm biết sâu, cần làm chú giải. Qua phần chú giải này, người viết cũng
hy vọng sẽ giúp bản thân và quý độc giả hiểu biết sâu về ý nghĩa nội
dung và giá trị Tin Mừng về món quà sự sống đời đời mà Thiên Chúa đã dành ban cho con người. Bài viết sẽ được trình bày gồm ba chương:
Chương
I: Phần Dẫn Nhập Tổng Quát như đã trình bày ở trên.
Chương
II: Chú Giải Ga 17, 3
Chương III: Nhận định
CHƯƠNG II. CHÚ GIẢI Ga
17,3
1.
BỐI CẢNH BẢN VĂN
Bối cảnh xa: câu Ga 17,3 nằm trong bối cảnh “Giờ của
Đức Giêsu” hay “Giờ
được tôn vinh”. Bối cảnh diễn tiến từ chương 13 đến
chương 21 cụ thể như sau:
Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (chương 13 – 16)
Lời nguyện của Đức Giêsu (chương 17)
Cuộc Thương Khó (chương 18 – 19)
Phục Sinh & Kết luận thứ nhất và thứ hai (chương 20-21)
Như vậy, bối cảnh gần nhất của câu 17,3 nằm trong “lời
nguyện hiến tế” của Đức Giêsu thân thưa với
Thiên Chúa Cha (17,19). Đức Giêsu biết “giờ của Ngài
đã đến”, giờ Ngài được Cha tôn vinh: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn
vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. ” (17,1), giờ Ngài sắp về cùng
Cha : “Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế
gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.” (16,28).
Đức Giêsu đã nói câu 17,3 này nơi nhà Tiệc ly trong bầu khí của bữa ăn cuối cùng
giữa Ngài và các môn đệ. Theo NAB,
câu này rõ ràng đã được thêm vào trong phần biên tập của Tin Mừng để phản ánh
câu trước, và đặc biệt không nơi nào khác trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu tự nhận
mình là Giê-su Ki-tô.
Và bối cảnh sau đó là giờ tôn vinh qua cuộc thương khó và phục sinh của Ngài.
2.
DỊCH SÁT BẢN VĂN
Bản văn gốc Hy Lạp: “αὕτη δέ ἐστιν ἡ αἰώνιος ζωὴ ἵνα γινώσκωσιν σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν καὶ ὃν ἀπέστειλας Ἰησοῦν Χριστόν.” (Jn. 17:3 NA28).
Bản dịch của nhóm GKPV: “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy
nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô.” (Ga 17, 3).
Bản dịch của HĐGM Hoa Kỳ: “Now this is eternal life,
that they should know you, the only true God, and the one whom you sent, Jesus Christ.”
(Jn. 17:3 NAB).
Bản dịch sát bản văn sau khi chú giải: xin xem ở phần
ý nghĩa thần học và áp dụng thực hành.
3.
PHÊ BÌNH BẢN VĂN
Có
ba biến thể trong bản văn gốc Hy Lạp theo
Nestle Aland 28: “αὕτη δέ ἐστιν ἡ αἰώνιος ζωὴ ἵνα Ýγινώσκωσιν σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν καὶ ὃν Ýἀπέστειλας Ἰησοῦν ΧριστόνÞ.” (Jn. 17:3 NA28).
Biến thể thứ nhất ở động từ Ýγινώσκουσιν được thay thế
trong một vài bản chép tay (the word is replaced in some manuscripts): A D L N W Δ 0109. 0301.
33.579. 1241. γινώσκουσιν là
động tính từ hiện tại (verb participle present) từ động từ γινώσκω. Nestle Aland 28 chọn γινώσκωσιν đúng về mặt văn phạm hơn.
Biến thể thứ hai ở động từ
Ýἀπεπεμψας: từ được thay thế
trong bản văn chép tay î66vid,
Nestle Aland 28 chọn “ἀπέστειλας”
động từ ngôi số hai số ít, indicative aorist active từ động từ ἀποστέλλω, đúng văn phạm hơn.
Biến
thể thứ ba ở Ἰησοῦν ΧριστόνÞ có thêm (are inserted) cụm từ “εις τουτον τον κοσμον” (vào thế
gian/ thế giới này) được tìm thấy ở bản văn D. Nếu thêm vô cụm từ này cũng
không ảnh hưởng đến nội dung, ý nghĩa của bản văn: Giêsu Ki-tô (đi vào thế gian
này)
4.
CẤU TRÚC BẢN VĂN
Để thuận tiện cho việc chú giải, người viết phân
chia bản văn 17, 3 thành ba câu:
Câu 17,3a: αὕτη δέ ἐστιν ἡ αἰώνιος ζωὴ
Câu 17,3b: ἵνα γινώσκωσιν σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν
Câu 17,3c: καὶ ὃν ἀπέστειλας Ἰησοῦν Χριστόν.
Như thế, « sự sống đời đời » sẽ liên hệ đến
bộ ba : con người (họ), Chúa Cha, và Giêsu Ki-tô Đấng Cha sai đến. Ngoài
ra có sự trùng hợp đặc biệt liên quan đến các « bộ ba » trong chương
17 này mà Raymond E. Brown
đã phát hiện ra: thứ nhất, bộ ba những ai mà Đức Giêsu muốn cầu nguyện
cho : “cầu xin cho Con” (17,1), “cầu cho những kẻ Cha ban cho Con” (17,9),
và và cầu xin “cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con” (17,20). Bộ ba thứ hai
về chủ đề tôn vinh : “tôn vinh Con để tôn vinh Cha” (17,1-5), “Con được
tôn vinh nơi họ” (17,10), và “Con ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con”
(17,22). Bộ ba thứ ba liên hệ đến Cha : “Cha tôn vinh Con bên Cha” (17,5),
“Con đến cùng Cha, để họ nên một như chúng ta” (17,11), và “Cha ở trong con và
con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (17,21). Bộ ba thứ tư những người
được Cha ban cho Đức Giêsu : “tất cả những ai Cha đã ban cho Người”
(17,2), “những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha” (17,9), và “những
người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (17,24). Cuối cùng, bộ ba về chủ đề
mặc khải của Đức Giêsu về Cha : “danh Cha” (17,6), “lời của Cha” (17,14),
và “danh Cha” (17,26).
Sự sống đời đời là đối tượng
chính yếu có liên quan mật thiết tới « bộ ba » các nhân vật : Họ
(con người), Cha, và Giêsu Ki-tô. Chúng ta cùng đi vào phần chú giải chi tiết
các từ trong bản văn.
5.
ĐỌC SÁT BẢN VĂN VÀ CHÚ GIẢI
5.1 Sự sống đời đời là điều đáng chú ý nghe (αὕτη)
Aὕτη là đại từ chỉ
định giống cái, dùng để chỉ người hoặc vật nhằm gây sự chú ý cho người nghe đến
đối tượng mà người nói đang muốn nhắc đến. Vậy trong bối cảnh này, tác giả Tin Mừng Gioan muốn nhấn mạnh đến người nghe
phải đặc biệt chú ý đến : “ αὕτη” (đây là). Có thể
nói đây là điều quan trọng nói về hay bàn về sự sống đời đời, điều hệ trọng liên
quan đến phận người, và cũng là Tin Mừng mà tác giả muốn loan báo, là chân lý được
mặc khải từ Thiên Chúa.
5.2 Sự sống đời đời là giây phút hiện tại (δέ)
“Δέ” là một tiếp đầu ngữ thường dùng để nối kết các ý nghĩa đã triển khai
trước đó với các ý tưởng sẽ triển khai kế tiếp. Δέ có nhiều nghĩa, và thường được
dịch tuỳ theo bối cảnh, có thể là tiếp theo, sau đó, rồi thì, bây giờ, giờ đây.
Tác giả Tin Mừng Gioan thường dùng liên từ δέ nhằm tường thuật để giới thiệu
cho độc giả bối cảnh sự vật ngay tại thời điểm hiện tại này, hoặc không dịch.
Ngữ cảnh trong câu 17,3a, δέ đi chung với động từ εἰμί được chia ở thì hiện tại, điều đó cho thấy sự sống đời đời chính là những
giây phút hiện tại, không xa vời ảo tưởng, có thể thụ cảm được ngay bây giờ,
ngay giờ phút này.
5.3 Sự sống đời đời là một chân lý, một thực tại không mơ
hồ (ἐστιν)
Động từ “ἐστιν” được chia ở thì hiện tại, chủ động,
ngôi số ba số ít từ gốc động từ εἰμί, và chủ ngữ của nó là “ἡ αἰώνιος ζωὴ”. ἐστιν diễn tả chủ thể sự sống đời đời (chủ ngữ của nó) « là ». Điều đó
cho thấy đây là một thực tại không mơ hồ, là điều hiển nhiên có thật, và là một
định nghĩa về sự sống đời đời. Khi kết hợp cả ba từ δὲ, αὕτη và ἐστιν lại với nhau,
tác giả cho thấy đây là một câu định nghĩa rất quan trọng đáng phải nghe cho mọi
người, mọi thời đại.
5.4 Sự sống đời đời (ἡ αἰώνιος ζωὴ)
Sứ mạng của Đức Giêsu được Chúa
Cha sai đến thế gian là để thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha (5,19.30 ;
6,38-40 ; 15,10). Và ý muốn của Chúa Cha là: « những ai thấy
người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời », và chính người
Con sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết (6,40). Như thế, Sự sống đời đời là ý
muốn của Thiên Chúa Cha muốn ban tặng cho con người qua người Con là Đức Giêsu.
Như đã nói, sự sống đời đời là nội dung chính yếu liên quan đến bộ ba: Chúa Cha, Đức Giêsu Ki-tô, và chúng ta (họ). Có
thể nói, định nghĩa (biết) về sự sống đời đời là định nghĩa (biết) về Thiên
Chúa, và định nghĩa (biết) về chính mình một cách trọn vẹn và chân thật nhất.
Con người chỉ có thể biết về mình và biết về Thiên Chúa là nhờ mặc khải từ Đức
Giêsu, “Đấng tự trời xuống”. Thật vậy, chỉ duy nhất người từ trời xuống mới biết
những sự trên trời, ngoài ra những người dưới đất chỉ có thể suy đoán những sự
trên trời, điều mà lý trí của họ không thể biết tỏ tường được (6,38). Cho nên, sự
sống đời đời chính là dấu chỉ để biết xác thực về Thiên Chúa, và biết về phẩm
giá con người thật sự mình là ai.
Sự sống đời đời chỉ có thể là sự sống của chính Thiên Chúa. Tính từ αἰώνιος trong câu 17,3a được hợp giống,
số, cách theo danh từ ζωὴ, để làm chức năng bổ nghĩa, định
tính cho ζωὴ. αἰώνιος ζωὴ có nghĩa là sự sống đời đời, vĩnh viễn,
mãi mãi, bất diệt, chẳng cùng, không có bắt
đầu, không có kết thúc. Như vậy, sự sống đời đời không
bao giờ kết thúc chỉ có thể là sự sống của chính Thiên Chúa, bởi duy một mình Ngài
là Đấng Hằng Sống, là nguồn sự sống. Đức Giê-su xác
nhận với người Do Thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham,
thì tôi, Tôi Hằng Hữu!” (8,58). Ngài đã xác nhận Ngài là sự sống đời đời,
và mệnh lệnh của Chúa Cha cũng là sứ mạng của Ngài được sai đến là đem sự sống ấy
đến cho con người : “καὶ οἶδα ὅτι
ἡ ἐντολὴ αὐτοῦ ζωὴ αἰώνιός ἐστιν (và tôi biết: mệnh
lệnh của Người là sự sống đời đời)” (12,50).
Để diễn đạt sự khác biệt về sự
sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên (sự sống của Thiên Chúa), các thánh sử Tân
Ước sử dụng các danh từ khác nhau để truyền tải nội dung ý nghĩa thần học mà
tác giả muốn diễn tả. Ba danh từ thường được dùng để diễn đạt về sự sống là : βίος, ψυχή, và ζωὴ.
Tác giả Tin Mừng Gioan không sử dụng danh từ βίος để nói về sự sống. Danh từ ψυχή diễn đạt sự sống tự nhiên, đời
sống trần thế, linh hồn. Tác giả Tin Mừng Gioan sử dụng
danh từ ψυχή để diễn đạt về sự sống tự
nhiên, về đời sống trần thế: “Sở dĩ
Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống (ψυχήν) mình để
rồi lấy lại.” (10,17),
và “Tôi chính là Mục Tử
nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống (ψυχὴν) mình cho đoàn
chiên.” (10,11). Ngoài ra, tác giả Tin Mừng Gioan cũng sử dụng
danh từ ψυχή để chỉ về linh hồn, tâm hồn như
là cái bên trong: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến
(ψυχή μου τετάρακται)! (12,27).
Riêng danh từ ζωὴ được các tác giả Tân Ước và
tác giả Tin Mừng Gioan sử dụng đặc biệt để diễn đạt sự sống siêu nhiên, sự sống
của Thiên Chúa. Tân Ước sử dụng danh từ ζωὴ 135 lần, truyền thống Gioan sử
dụng 66 lần, và riêng Tin Mừng Gioan sử dụng đến 36 lần. Vì thế có thể nói, Tin Mừng Gioan
là « Tin Mừng về Sự Sống ». Sự sống đời đời (ζωὴ) hay sự sống của
chính Thiên Chúa là một trong những nội dung
chính yếu của Tin Mừng Gioan rao giảng, là điều tâm
huyết mà tác giả muốn loan báo để mọi người biết
(tin) mà được sự sống đời đời (20,31). ζωὴ trong câu 17,3a cũng như trong
toàn bộ Tin Mừng Gioan là minh chứng cho thấy ζωὴ là sự sống của chính Thiên
Chúa:
Thứ nhất, Thiên Chúa có sự sống nơi chính mình,
không do ai ban tặng, Ngài là nguồn phát sinh sự sống: “Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào (ὥσπερ γὰρ ὁ πατὴρ ἔχει ζωὴν ἐν ἑαυτῷ), thì cũng ban
cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy (οὕτως καὶ τῷ υἱῷ ἔδωκεν ζωὴν ἔχειν ἐν ἑαυτῷ)” (5,26).
Thứ hai, Ngài là Tạo Hoá. Qua Đức Giêsu chúng ta biết
được Chúa Cha là Đấng Tạo Hoá (1,18). Đức Giêsu, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (1,18), là Ngôi Lời, là Con
Một Thiên Chúa, và nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành (1,1-3). Cho nên, Thiên
Chúa chưa một ai thấy cả, chúng ta chỉ có thể biết Thiên Chúa chân thật từ Đức
Giêsu. Ngài là Thiên Chúa Con Một, và qua Ngài chúng ta biết muôn vật được tạo
thành nhờ Ngài. Thiên Chúa mà Ngài gọi là Cha và chúng ta sau này cũng được gọi
như thế là Tạo Hoá.
Thứ ba, vì Thiên Chúa là Tạo
Hoá, là nguồn phát sinh sự sống, cho nên Ngài có quyền ban tặng và có quyền đòi
hỏi nơi con người. Chúa Cha ban quyền sự sống của Cha (quyền của Thiên Chúa)
cho Chúa Con trên mọi phàm nhân là để Người Con ban sự sống đời đời cho tất cả
những ai Cha đã ban cho Người Con (17,2).
Như vậy, ζωὴ được sử dụng trong bản văn Ga
17,3a không nhằm diễn đạt
sự sống tự nhiên của con người phải chết, nhưng diễn đạt sự sống của chính
Thiên Chúa muốn trao ban cho con người trong và qua Người Con, Đức Giê-su Kitô (5,26). ζωὴ là điều
Thiên Chúa muốn thông ban sự sống của chính Mình cho con người để con người cũng
được làm chúa qua Đức Giêsu Kitô. Chỉ qua Đức Giêsu (Đấng Cha
sai đến) chúng ta mới lãnh nhận được sự sống đời
đời (17,3). Đức Joseph Ratzinger nói:
Ngay từ giờ phút này, nếu sống và liên kết với Đức
Giêsu, thì ta có được sự sống lại rồi. Ở đâu có hiệp thông với Người, tức thời ở
đó biên giới sự Chết đã được vượt qua. Ai ăn mình và uống lời của Đức Giêsu,
hay đón nhận Người vào mình trong đức tin và qua bí tích, người đó được nuôi dưỡng
bằng bánh trường sinh. Bất cứ ở đâu, khi con người bước vào cái Tôi của Đức
Kitô, lúc đó họ đã ở trong không gian sự sống đời đời.
Thật vậy, Đức Giêsu đã định
nghĩa về chính mình là “con đường,
là sự thật và là sự sống” (14,6a). Ngài là Đấng Trung Gian Duy Nhất đưa nhân loại
đến với Chúa Cha, vào trong Chúa Cha để được sự sống đời đời : “
Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (14,6b). Như thế, câu
17,3a đã giới thiệu cho chúng ta biết sự sống đời đời chính là sự sống của
Thiên Chúa, và là một thực tại có thể thừa hưởng ngay giây phút hiện tại này. Vậy
để có được sự sống đời đời cần phải có điều kiện.
5.5 Điều kiện để có được sự sống đời đời (ἵνα)
ἵνα là một từ nối, phần lớn được dùng với các động từ được chia ở thì hiện tại
hoặc ở thể subjunctive, nhằm giới thiệu các mệnh đề và
chỉ ra mục đích hay mục tiêu của các mệnh đề đó. ἵνα được phiên dịch là: “để mà”
(that, in order that).
Ví dụ như: “Gioan đến để (ἵνα) làm chứng”
(1,7), hay “kẻ trộm đến để (ἵνα) ăn trộm, còn tôi đến
để (ἵνα) cho chiên được sống và sống dồi dào”
(10,10). ἵνα trong câu 17,3b cũng mang cùng ý nghĩa “để mà” (in order that). « Để »
có được sự sống đời đời, điều kiện để có được sự sống đời đời đòi buộc những điều
sẽ được liệt kê kế tiếp …. Như thế, tác giả Tin Mừng Gioan đã chỉ ra một con đường,
đưa ra một định nghĩa, và ai biết và đi theo con đường đó sẽ có được sự sống đời
đời.
5.6 Họ biết (γινώσκωσιν)
Động từ được chia γινώσκωσιν đến từ động từ γινώσκω, có nghĩa là tới để biết, nhận ra,
nhận thức.. Γινώσκωσιν là ngôi số 3, số nhiều, thể subjunctive present active, có nghĩa là: « họ
biết ». “Biết - γινώσκω” là một sự hiểu biết có
liên quan mật thiết (nhận thức) giữa chủ thể “biết” và đối tượng “được biết”. Ví
dụ: “ như Chúa Cha biết tôi, và tôi
biết Chúa Cha (καθὼς γινώσκει με ὁ πατὴρ κἀγὼ γινώσκω τὸν πατέρα) ” (10,15).
Như thế, “biết - γινώσκω” có thể hoán đổi, và có
tính hỗ tương giữa chủ thể biết và đối tượng được biết.
“Biết - γινώσκω” mang chiều
kích sâu đậm. Biết sâu đậm có thể so sánh như Đức Giêsu biết chiên của Ngài: “Tôi chính là Mục
Tử nhân lành. Tôi biết (γινώσκω) chiên của tôi,
và chiên của tôi biết (γινώσκουσίν) tôi (10,14),
và tôi biết (γινώσκω) chúng và
chúng theo tôi” (10,27).
“Biết - γινώσκω” mang sử tính, chứ không phải
như biết sơ qua “Oἶδα”. Điển hình của biết mang sử
tính, đưa đến một cái biết sâu đậm, biết nhận thức chắc chắn về nhau, chúng ta
có thể thấy trong Tin Mừng Gioan qua chuyện theo Thầy của Phê-rô: Thầy biết (σὺ γινώσκεις) con (Phê-rô) yêu mến Thầy. Đây là một
quá trình hiểu biết sau “ba” năm kể từ lúc Thầy gọi con (Phê-rô), trò đi theo
Thầy, sống cùng với nhau, kể cả những lần tuyên xưng về Thầy và cả những lần từ
chối Thầy. Một quá trình biết rõ về nhau, Phê-rô đã tiếp tục theo Thầy, gắn kết
với Thầy, và cuối cùng chết cho Thầy.
Biết Thiên Chúa cách trực tiếp
thì khác với biết Thiên Chúa cách gián tiếp. Raymond E. Brown nhận xét,
duy chỉ một mình Đức Giêsu nói Ngài biết Cha một cách trực tiếp: “như Chúa Cha
biết tôi, và tôi biết Chúa Cha” (10,15). Phần chúng ta chỉ có
thể biết Thiên Chúa chân thật một cách gián tiếp qua Đức Giêsu, Đấng đã
nói : “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy.
Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (14,7).
Như vậy, chúng ta chỉ có thể biết về Thiên Chúa qua
Đức Giêsu, Đấng trực tiếp biết Cha. Biết (γινώσκω)
có thể hoán đổi, và mặt nào đó đồng nghĩa với tin (πιστεύω)
(17,8). Biết hay tin như là một sự gắn kết (một giao ước) cả hai lại với nhau,
bằng một mối dây liên kết chặc chẽ không thể tách rời giữa Thiên Chúa và từng
cá nhân.
5.7 Cha (là) Thiên Chúa duy nhất
chân thật (σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν)
Một Thiên
Chúa chân thật có nghĩa là không có nhiều thần, nhiều chúa, và đặc biệt Ngài là
Thiên Chúa mà Đức Giêsu gọi là Cha, và con người nhờ được biết mà có được sự sống
đời đời.
5.7.1 Thần (θεός) được
con người tôn lên
θεός có thể để chỉ một ngẫu tượng mà con người tôn lên thành thần. Như trường hợp đám
đông sau khi thấy
việc ông Phao-lô và ông Ba-na-ba đã làm thì họ hô lên bằng
tiếng Lycaonia: “Thần linh (οἱ θεοὶ) mặc lốt người
phàm đã xuống với chúng ta !” (Cv 14,11), và họ đã “gọi ông Ba-na-ba là thần Dớt, ông Phao-lô là thần
Héc-mê” (Cv 14,12). Điều đó cho thấy, thần (θεός) có thể được
tạo ra từ con người. Con người có thể tôn mọi thứ, mọi vật, mọi người lên thành
thần, cho nên sẽ có rất nhiều thần “οἱ θεοὶ”, không biết đâu là thần thật
hay thần giả, và điều này cũng minh chứng cho chúng ta biết về niềm tin
đa thần nơi các dân tộc. Một khi con người tạo dựng
nên thần, thì thần trở thành công cụ,
thành phương tiện cho họ trục lợi (Cv 19,24-28).
Ngoài đa thần ra (οἱ θεοὶ), θεός cũng có giống cái. Điều này cho thấy, trong nhiều vị thần (οἱ θεοὶ) sẽ có cả thần nam và thần nữ: “họ không phạm thánh cũng chẳng nói lộng ngôn chống nữ thần (τὴν θεὸν) của chúng ta.” (Cv 19,37).
Thần (θεός) không nhất thiết phải luôn luôn là tốt. θεός cũng mang nghĩa ác thần, thần
xấu của đời này: “Họ không tin, vì tên ác thần của
đời này (ὁ θεὸς τοῦ αἰῶνος) đã làm cho
tâm trí họ ra mù quáng” (2 Cr 4,4).
Như vậy, θεός cũng có nghĩa là
ngẫu tượng do con người tôn lên là thần. Có thể là thần nam, thần nữ, thần tốt hay thần xấu như Thánh Phao-lô nói: “Thật thế, mặc dầu người ta cho là có những thần (θεοὶ) ở trên trời hay
dưới đất quả thực, thần cũng lắm (θεοὶ) mà chúa cũng
nhiều (κύριοι)” (1 Cor 8,5).
5.7.2 Thiên Chúa (θεός) được
mặc khải trong Cựu Ước
Kinh Thánh Cựu Ước trình bày rất rõ ràng, đầy xác tín, Thiên Chúa là Đấng duy nhất:
“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa
chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất (אֶחָֽד)”
(Dnl 6,4), Ngài từ bi, và không có thần nào khác ngoài Ngài (Dnl 4,31-35; Is 45,5).
Thiên Chúa Cựu Ước được biết đến là:
Đấng Tạo Hóa
đã tạo dựng nên các tầng trời và đất: “ בְּרֵאשִׁ֖ית בָּרָ֣א אֱלֹהִ֑ים אֵ֥ת הַשָּׁמַ֖יִם וְאֵ֥ת
הָאָֽרֶץ׃” (St 1,1).
Ngài là Đấng Toàn Năng,
Đấng Tối Cao khác với
thần của các dân tộc xung quanh.
Ngài là Thiên Chúa của cha ông họ: Thiên Chúa của
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp (Xh 3,6.16; 4,5; 6,3).
Ngài là Thiên Chúa của giao ước. Một Thiên Chúa có mối
quan hệ cá vị với từng người,
và với một dân tộc.
Ngài là Nguồn Sống “nắm
trong tay hồn (נֶפֶשׁ) của mọi sinh vật cũng như hơi thở (רוּחַ) của tất
cả người phàm (בָּשָׂר).” (G 12,10). Ngài cũng là Đấng duy
trì sự sống: “Sinh khí của Thiên Chúa (רֽוּחַ־אֵ֥ל) đã làm ra tôi, hơi thở của Đấng Toàn Năng đã cho tôi được sống”
(G 33,4).
Ngài là Đấng cầm quyền sinh tử (1 Sam 2,6; Tv 104,29; Gv 12,7), và là Đấng sẽ làm cho kẻ chết
trỗi dậy (Đn 12,2; 2
Mac 7,22-23).
Ngài là Thiên Chúa chân thật đã ra tay uy quyền rẽ
nước biển đỏ cho dân băng qua, thoát ra khỏi ách nô lệ ở Ai-cập (Xh 14,15-31),
và Ngài cũng là Thiên Chúa đã cho lửa từ trời ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi,
đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn khi đáp lời tiên tri I-sai-a cầu
khẩn. Chứng kiến cảnh tượng đó, toàn dân đã phủ phục tuyên xưng Ngài là Thiên
Chúa chân thật:
Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và
Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa
và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc
này. Xin đáp lời con, lạy ĐỨC CHÚA, xin đáp lời con, để dân này nhận biết
Ngài là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” Bấy
giờ, lửa của ĐỨC CHÚA ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong
mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói:
“ĐỨC CHÚA quả là Thiên Chúa! ĐỨC CHÚA quả là Thiên Chúa! (1V 18, 36-39).
5.7.3 Thiên Chúa Đức Giêsu gọi là Cha là Thiên Chúa duy nhất
chân thật (σὲ τὸν θεὸν μόνον ἀληθινὸν)
Việc cần
xác định trước hết là: Thiên Chúa mà Đức Giêsu đang rao giảng, Thiên Chúa mà
Ngài gọi là Cha cũng là Thiên Chúa của Cựu Ước, Thiên Chúa của Israel, Thiên
Chúa của cha ông họ. Đức Giêsu xác nhận: Cha của Ngài chính là Đấng đã nuôi sống
dân bằng manna trong sa mạc, Người đã giải thoát dân ra khỏi ách nô lệ ở Ai-cập
(6,32).
Σὲ trong câu 17,3b được hiểu là
“Cha của Đức Giêsu”, là đại từ nhân xưng
thay thế cho “πάτερ” ở câu 17,1 khi Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng: “πάτερ (Cha ơi)”. Cha là Thiên Chúa Hằng Sống, Người
có quyền trên mọi phàm nhân, và là Người ban sự sống đời đời (17,1-2): “Nói thế xong, Đức Giê-su ngước mắt
lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn
vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền
trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã
ban cho Người. ” (17,1-2).
Σὲ là túc từ trực tiếp số ít của γινώσκωσιν (họ biết), và đồng thời cũng là đồng vị ngữ của μόνον ἀληθινὸν θεὸν. Cho nên, ngữ nghĩa của “σύ” trong câu là Cha, Đấng sai Đức Giêsu. Ngài là Thiên
Chúa chân thật duy nhất, là Người có quyền trên mọi phàm nhân, và là Người đã ban
quyền (sự sống đời đời) cho Con.
Dựa theo câu 17,3b, chúng ta
có thể biết Thiên Chúa Cha có hai đặc tính: duy nhất “μόνον” và chân
thật “ἀληθινὸν”. Đặc tính thứ nhất được biết qua
tính từ μόνον, có nghĩa
là duy nhất, chỉ có một: “Chỉ còn lại
một mình (μόνος) Đức Giê-su” (8,9). Như vậy, μόνος trong câu
này có
nghĩa là duy nhất, độc nhất không có hai (17,3b). Đặc tính thứ
hai được biết đến qua tính từ ἀληθινὸν. Tính từ “ἀληθινός” xuất hiện chín lần trong Tin Mừng Gioan (1,9; 4,23. 37; 6,32; 7,28;
8,16; 15,1; 17,3; 19,35) mang ý nghĩa đích thực: “giờ
những người thờ phượng đích thực” (4,23), xác thực: “Ngôi Lời là ánh sáng thật” (1,9), chính cống: “Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật”. Ngoài ra, “ἀληθινός” mang nghĩa hợp lệ, có giá trị
pháp lý, có hiệu lực, chắc chắn, đáng tin cậy. Như vậy, Tin Mừng Gioan xác tín
chỉ duy nhất Cha là Thiên Chúa chân thật, không có chúa hay thần nào khác ngoài
một mình Cha (σὲ τὸν θεὸν μόνον ἀληθινὸν) (17,3b). Và không dừng lại ở
đó, Tin Mừng Gioan đã xác tín: Một Thiên Chúa duy nhất chân thật không đi ngược
lại với niềm tin và mặc khải trong Cựu Ước, nhưng Tin Mừng mặc khải thêm Thiên
Chúa duy nhất chân thật đó là Chúa Cha, và Chúa Con, (và Chúa Thánh Thần).
Chúa Con chính là Giêsu Ki-tô, Đấng được Chúa Cha sai vào trong thế gian (17,3c).
Cho nên, lời của Đức Giêsu là sự thật: “ἡ κρίσις ἡ ἐμὴ ἀληθινή ἐστιν (xét đoán của tôi là sự thật)” (8,16).
Câu 17,3b là một lời
tuyên xưng, là một điều xác tín: Chúa Cha là Thiên Chúa duy
nhất chân thật. Chính vì Ngài là Thiên Chúa thật,
mới có thể giải thích được mầu nhiệm về sự sống đời đời mà con người muốn có được buộc
phải biết, buộc phải liên kết gắn bó với Thiên Chúa Cha. Chỉ có một con đường,
một cách duy nhất để gắn kết với Cha và để được trở nên con cái của Cha “τέκνα θεοῦ” là qua người Con, gắn kết với người Con, Giêsu Ki-tô (1.12).
5.8 Mối liên hệ độc nhất giữa
Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha “καί”
Kαί là một liên từ có tính ngang bằng
hai vế, dùng để kết nối các từ, các mệnh đề, và các câu lại với nhau. καί được chuyển
ngữ là: “và”. Như vậy, để có được sự sống đời đời (17,3a), cần phải hội đủ hai điều kiện. Thứ nhất là “họ biết Cha”, và thứ hai là “họ biết Con”. Mầu
nhiệm trong câu 17,3 này, chúng ta có thể xác nhập
hai điều kiện thành một điều kiện khi Đức Giêsu nói: “Tôi với Chúa Cha là một” (10,30),
và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa
Cha (14, 9b.10a). Vậy tại sao Tin Mừng không gộp lại một điều kiện nhưng
vẫn buộc phải hai điều kiện như vậy? Bởi vì từ mối liên hệ độc nhất đặc biệt giữa Đức Giêsu và Cha của Ngài như đã trình
bày ở trên ở trên. Điều kiện thứ nhất phải biết Chúa Cha có lẽ chỉ dừng lại ở Cựu Ước, chưa
hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân Israel (và người dân Việt Nam) vẫn
tin Thiên Chúa (ông Trời) chính là sự sống đời đời (Đấng Hằng Hữu). Nhưng, con người muốn có được sự sống
ấy phải gắn kết được với sự sống của Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Nhưng một
lần nữa, làm sao con người có thể vào trong Thiên Chúa Cha? Đây là mầu nhiệm,
là tình yêu, là kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa Cha dành cho con người. Cha là
sự sống đời đời, và Cha đã ban quyền đó cho Con (Con cũng Hằng Hữu như Cha). Nay qua
Con, con người có thể gắn kết hay ở trong Con để có thể đến và ở trong Chúa Cha. Bởi vì, Con ở trong Cha và Cha ở
trong Con. Cho nên, điều kiện thứ hai là tất yếu và là mặc khải trọn vẹn về kế
hoạch yêu thương của Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã nói: “τετέλεσται - thế là đã hoàn tất” (19,30). Do
đó, con người biết Đức Giêsu và gắn kết với Ngài thì có sự sống đời đời (17,2).
5.9 Đấng Cha đã sai đến (là)
Giêsu Kitô (ὃν ἀπέστειλας Ἰησοῦν Χριστόν)
5.9.1
Đấng Cha sai đến (ὃν ἀπέστειλας)
Đại từ quan hệ “ὃν” được thay thế cho Ἰησοῦν Χριστόν vì hợp giống số cách với Ἰησοῦν mang nghĩa là: “Người, Đấng”.
Động từ ἀπέστειλας được chia ở thể indicative aorist active, ngôi số
hai số ít từ gốc động từ “ἀποστέλλω”, diễn tả hành động đã xảy ra, và hoàn toàn chấm dứt trong quá khứ có nghĩa là “Cha đã sai”. Người được sai sẽ đi làm những việc của người sai giao phó, và ủy thác
cho. Như vậy, nhiệm vụ của người được sai phái là thi hành đúng
ý của người đã sai phái mình, và phải hoàn thành sứ mạng được giao. Đồng thời
người được sai phái lại là người đại diện hợp pháp, có quyền được đón tiếp như
chính vị đã sai phái người ấy (17,3). Trong
Tin Mừng Gioan, động từ ἀπέστειλας được sử dụng bảy lần: một lần ở câu 11,42, và đặc
biệt trong chương 17 tác giả lập đi lập lại đến sáu lần (17,3.8.18.21.23.25).
Điều đó cho thấy, Cha là Đấng đã sai Con, và
đóng vai trò chủ động, còn Đức Giêsu là Đấng được Cha sai. Mối liên hệ giữa
Người Sai (Chúa Cha) và Đấng Được Sai (Đức Giêsu) là duy nhất, khác
biệt với những người được sai trước đó (1,6), và sứ mạng được sai của Đức Giêsu
siêu vượt lên trên suy nghĩ và
mong đợi của con người.
5.9.2
Đức Giêsu Ki-tô (Ἰησοῦν Χριστόν)
Ἰησοῦς là danh từ tên riêng, giống đực, vì thế thường là tên gọi của người
nam, tên gọi phổ biến của người Do Thái. Ἰησοῦς được phiên dịch là Jesus (Giêsu) hay Joshua (Giôsuê), có nghĩa là “Đức Chúa cứu”. Trong bối cảnh Tin Mừng Gioan, và trong câu 17,3, Ἰησοῦς mà tác giả đang rao
giảng, đang đề cập đến là Đấng Kitô (Ἰησοῦν Χριστόν), Đấng đến từ Thiên Chúa. Như thế, qua danh Giêsu Ki-tô, Tin Mừng Gioan cho
chúng ta biết về một con người đặc biệt có hai bản tính: bản tính con người
(Giêsu) và bản tính Thiên Chúa (Ki-tô).
5.9.2.1 Nhân loại tính
của Đức Giêsu (Ἰησοῦς)
Đức Giêsu
là con người lịch sử. Đây là sự thật hiển nhiên và không thể chối cãi,
bởi vì người phụ nữ xứ
Samaria nói với mọi người tới xem người
đàn ông có tên là Đức Giêsu: “δεῦτε ἴδετε ἄνθρωπον” (4,29). Anh mù từ
thuở mới sinh xác
tín Đức Giêsu là một người đàn ông, người đã làm cho anh sáng mắt: “ὁ ἄνθρωπος” (9,11). Những người
Pharisêu cũng xác nhận “chúng tôi biết ông ấy (biết ông Giêsu) - οὗτος ὁ ἄνθρωπος” (9,24). Do đó, Đức Giêsu
là một con người lịch sử, không phải là một nhân vật huyền thoại, hay là một
nhân vật anh hùng trong truyền thuyết, Ngài là một người Do Thái sống trong một
thời gian và nơi chốn cụ thể.
Tên gọi đầy đủ của Ngài là Giêsu Nazarét “Ἰησοῦν τὸν Ναζωραῖον” (1,45; 18,5), bởi
vì Ngài sống ở đó khá lâu, và ông Philatô tổng trấn La-mã lúc bấy giờ
(18,29), người đã ra lệnh đóng đinh Đức Giêsu, và cho viết một
tấm bảng treo trên thập giá ghi rằng: “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái.” (19,16.19).
Đức Giêsu cũng giống như bao nhiêu người khác. Ngài cũng đi làm việc, công việc của Ngài là rao giảng về sự sống đời đời (6,59; 18,20). Ngài thông thạo chữ
nghĩa, bởi vì người Do Thái lấy
làm ngạc nhiên khi thấy: “Ông này
không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” (7,15). Ngài cũng có
thân xác như chúng ta,
cũng mang lấy bản tính nhân loại như chúng ta, nhưng siêu vượt lên trên chúng
ta, vì trong thân xác Giêsu mang lấy bản tính Thiên Chúa; “Καὶ ὁ λόγος σὰρξ ἐγένετο” (1,14). Ngài cũng biết mệt mỏi
(4,6), biết khát và cần phải uống như bao nhiêu người khác (4,7;
19,28). Máu của Ngài cũng chảy ra như bao
nhiêu người khác khi bị tên lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn: “Tức thì, máu cùng nước chảy ra (ἐξῆλθεν εὐθὺς
αἷμα καὶ ὕδωρ)” (19,34).
Mang trong
mình tính nhân loại, Đức Giêsu cũng có những tình cảm, những cảm xúc
vui buồn. Đức Giêsu, Ngài cũng thổn thức
trong lòng và xao xuyến
khi đứng trước cái chết của người bạn thân Lazarô
(11,33), Ngài cũng xao xuyến nơi
cái chết của chính mình sắp đến gần
(12,27), và Ngài xao xuyến khi biết Giuđa phản bội
mình (13,21). Đức Giêsu cũng biết yêu như bao nhiêu người, thậm chí Ngài còn là biểu tượng của tình yêu (ἀγαπάω): “Trước
lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với
Chúa Cha. Người vẫn yêu thương (ἀγαπήσας) những kẻ thuộc về
mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (τέλος ἠγάπησεν
αὐτούς)” (13,1). Chính vì Ngài biết yêu, cho nên Ngài cũng
đòi hỏi được yêu.
Ngài đã hỏi Phê-rô: “Σίμων Ἰωάννου, ἀγαπᾷς με πλέον
τούτων (Này anh Simôn,
con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?)” (21,15). Không dừng lại ở đó, Ngài đòi hỏi các
môn đệ của Ngài phải yêu
thương nhau như chính
Ngài đã yêu
thương họ, yêu với một
tình yêu hiến thân cho anh em: “Εντολὴν καινὴν δίδωμι ὑμῖν, ἵνα
ἀγαπᾶτε ἀλλήλους, καθὼς ἠγάπησα ὑμᾶς ἵνα καὶ ὑμεῖς ἀγαπᾶτε ἀλλήλους (Thầy ban cho
anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em)” (13,34).
Đức Giêsu Nazarét cũng đã chết trên thập giá như một con
người phải chết.
Ngài đã được mai táng và đặt trong mồ, điều
đó chứng thật Ngài thật sự đã chết (19,38-42). Nhưng, như đã trình bày, Đức Giêsu
Nazarét khác biệt và siêu vượt lên trên chúng ta, Ngài đã được nâng dậy (đã được phục sinh), và được tôn vinh bên Thiên Chúa
Cha (δόξασόν με σύ, πάτερ, παρὰ σεαυτῷ) (17,5). Đức Giê-su Nazarét người duy nhất “Phục Sinh”, điều đó chứng minh Ngài là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa. Phục sinh
đã minh chứng về thiên tính của Ngài (17,3c).
5.9.2.2
Thiên tính của Đức Giêsu được thể hiện nơi danh xưng Kitô (Χριστός)
Nguồn gốc và ý nghĩa của danh
xưng Ki-tô (Χριστός). Χριστόν là danh từ giống đực, số ít
được chia ở thể accusative từ gốc danh từ Χριστός, tiếng
Hipri có
nghĩa là: “Đấng được xức dầu (מָשִׁיחַ)”. Xức dầu là dấu chỉ biểu tượng có từ thời Cựu Ước và
vẫn được dùng cho đến ngày nay. Qua việc xức dầu, người xức dầu (người sai, người
ủy thác) sẽ xức dầu chứng thực cho người được chọn (người được sai, người lãnh
nhận sự ủy thác) vào một chức vụ cụ thể để họ thi hành sứ vụ cụ thể được ủy
thác bởi người đã xức dầu tấn phong cho họ.
Lời hứa về Đấng Kitô (Χριστός) có ngay sau khi con người nguyên tổ
phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ có một người xuất thân từ “dòng giống đó sẽ đánh
vào đầu mi” (St 3,15), và chính Người đó sẽ cứu độ con người “אָדָם” sa ngã
phạm tội, do tội không vâng theo lời của Thiên Chúa: “Các ngươi không được ăn, không
được động tới, kẻo phải chết.” (St 3,3). Từ lời hứa Mêsia (מָשִׁיחַ) ấy đã đưa đến
hai hướng hành động. Hướng hành động
thứ nhất đến từ phía Thiên Chúa, Ngài thực hiện lời hứa của mình khi ban chính Con
Một của mình là Đức Giêsu,
người mà thiên hạ vẫn coi là con ông Giuse (Lc 3,23), và là người có dòng dõi
xuất thân từ con của Adam, mà: “A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3,38). Điều đó cho
thấy Đức
Giêsu không phải là một hiện tượng bổng nhiên xuất hiện, nhưng là một
biến cố nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Hướng hành động thứ hai từ phía dân được nhận lời hứa. Họ luôn trông chờ về Đấng Kitô,
và khi tới thời viên mãn, Đức Giêsu đã
đến giống như hay ứng
nghiệm lời Kinh Thánh mà các ngôn sứ đã loan báo. Đồng thời Ngài đến cũng khác với
niềm trông mong của dân
Israel về một Đấng Mêsia (Ki-tô) sẽ đem lại vinh quang về mặt kinh tế, về mặt chính trị,
vinh quang mang tính trần thế. Đây chính là điều họ không ngờ, là điều vượt quá sức
mong đợi, vượt quá sự hiểu biết của họ: Thiên Chúa lại ban chính Con Một
của mình không phải chỉ giải phóng một dân
tộc Do Thái về mặt chính trị, về mặt kinh tế. Nhưng Con của Ngài đến là để cứu
độ, để giải thoát cả thế giới khỏi sự tội, sự chết, và để mọi dân tộc được hưởng
sự sống đời đời. Bản thân Đức Giêsu cũng tự xác quyết mình là Đấng Kitô được Cha sai đến
(4,25-26; 17,3c), và dân chúng cũng chứng thực
Ngài là Đấng Kitô qua
những gì họ thấy các việc Ngài đã làm (7,41; 11,27). Như thế, dung mạo về Đấng Mêsia (Ki-tô) đích thật chúng ta thấy được
nơi Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa sai đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa, Ngài đến ứng nghiệm như những lời Môsê và các ngôn sứ đã loan báo (2,22;
4,26-47; 7,42; 13,18; 17,12; 19,24.28.36.37). Đấng Kitô (Χριστός)
đến để chết thay (cứu
độ) cho dân, và không chỉ
chết thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
khắp nơi (không phải
chỉ dân tộc Israel) về một mối (11,50-52).
Thiên tính của Đức Giêsu được thể hiện nơi danh xưng
Kitô. Ngay lời tựa, Gioan đã giới thiệu về “Lời” hằng có từ lúc khởi đầu “Ἐν ἀρχῇ ἦν ὁ λόγος”, và “Lời” là Thiên Chúa “καὶ θεὸς ἦν ὁ λόγος” (1,1). “Lời” đó đã trở nên thịt (thành người) “ὁ λόγος σὰρξ
ἐγένετο” (1,14). Đức
Giêsu Ki-tô chính là “Lời”, và là nguồn ân sủng và sự thật: “ἡ χάρις καὶ
ἡ ἀλήθεια διὰ Ἰησοῦ Χριστοῦ ἐγένετο” (1,17). Nơi danh Giêsu Ki-tô có đầy đủ phẩm tính của Thiên Chúa. Đức
Giêsu là sự sống “ἐν αὐτῷ ζωὴ ἦν” (1,4), là “Lời” hằng
có từ đời đời, là Thiên Chúa, và là Đấng Hằng Hữu (1,1; 8,58). Nhờ Ngài mà muôn vật
được tạo thành, và nhân loại nhờ Ngài mà được sống đời đời (1,3-4; 17,2-3). Thiên tính được thấy nơi danh Giêsu
Ki-tô, bởi vì được thấy nơi danh Thiên Chúa Con Một, Ngài đến từ Cha: “μονογενοῦς παρὰ πατρός” (1,14.18;
3,16.18; 20,30-31), Ngài hằng có từ đời
đời cùng với Cha (1,1; 8,24.28.57). Cho nên, Đức Giêsu Ki-tô có quyền năng
và sự sống đời đời như Cha: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự
trong tay Người. Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời ; còn kẻ
nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy. (3,34-36)
6.
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ ÁP DỤNG THỰC HÀNH
Sau khi chú giải ngữ nghĩa của câu 17,3, nay chúng ta có thể dịch lại như sau:
Giờ đây, ngay giây phút hiện tại này (δέ); Đây là điều quan trọng cần phải nghe, cần phải đặc biệt chú ý biết đến (αὕτη); Đây là chân lý cho mọi người và
mọi thời (ἐστιν), và để có được (ἵνα) sự sống đời đời, sự sống của Thiên Chúa (ἡ αἰώνιος ζωὴ), họ (con người) phải biết (γινώσκωσιν) Cha là Thiên Chúa duy
nhất chân thật (σὲ τὸν μόνον ἀληθινὸν θεὸν), và biết Đấng Cha đã sai đến là Giê-su Kitô (καὶ ὃν ἀπέστειλας Ἰησοῦν Χριστόν).
Như vậy, câu 17,3 là một câu định nghĩa, một mặc khải
ngắn gọn đầy đủ về sự sống đời đời, về toàn bộ kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa dành cho con người.
Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên con người và Ngài muốn chia sẻ vinh quang của
chính mình cho con người, thông chia chính sự sống của chính Ngài cho con người
qua Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là quà tặng
sự sống đời đời mà Thiên Chúa Cha đem đặt để giữa thế gian (15,1-8), chỉ cần biết
(tin hay gắn kết) với Đức Giêsu thì con người sẽ hưởng được sự sống đời đời
ngay từ đời này và mãi đời sau (17,3).
Nhờ món quà sự sống đời đời, chúng ta biết được
Thiên Chúa duy nhất chân thật là Cha, là đối tượng yêu thương chúng ta, và đồng
thời chúng ta cũng biết mình là đối tượng được Ngài yêu hết sức đặc biệt. Chính
vì biết về Thiên Chúa mà con người biết về chính mình. Con người có chung một
Cha là Tạo Hoá, như thế mọi người điều là anh chị em với nhau, phẩm giá cao quý
như nhau, và phải yêu thương nhau. Sư sống đời đời vô cùng cao quý chúng ta cần
phải trân trọng và loan báo để mọi người nhờ ‘biết” mà cũng được hưởng sự sống ấy.
DANH MỤC THAM KHẢO
Kinh Thánh
1. Nestle Aland 28. Novum Testamentum Graece. Germany: Deutsche Bibelgesellschaft, 1998.
2. Nova Vulgata. Novum Testamentum.
3. Nhóm CGKPV. Kinh Thánh Lời Chúa Cho Mọi Người. Hà Nội: Tôn Giáo, 2019.
4. The New American Bible. USA: Catholic Bible Press, 1987.
5. Vatican. The New American Bible.
Giáo trình và sách tham khảo
1. Arthur, Buttrick George. The Interpreter’s Dictionary of the Bible. Volume VII, VIII. New York: Abingdon Press, 1962.
2. Brown, Raymond E. The Gospel according to John I-XII. New York: Doubleday, 1970.
3. Brown, Raymond E. The Gospel according to John XIII-XXI. New York: Doubleday, 1970.
4. Gómez, Felipe. Ki-tô Học Toàn Tập. HCM: Antôn & Đuốc Sáng, 2017.
5. HĐGMVN. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
6. Nguyễn Cao Siêu. Giáo Trình Gioan. HCM: HVCG, 2021.
7. Phạm Cao Quý. Phương Pháp Đọc Kinh Thánh. HCM: HVCG, 2024.
8. Powell, Mark Allan. Introducing The New Testament. Michigan: Baker Academic, 1989.
9. Ratzinger, Joseph. Eschatology Death and Eternal Life. The Catholic University of America Press, 1988.
10. Ratzinger, Joseph. Chết và Sự Sống Đời Sau. Translated by Phạm Hồng Lam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2023.
11. Swetnam, James. An Introduction to the Study of New Testament Greek. Roma: Editrice Pontificio Istituto Biblico, 1998.
12. Thompson, Marianna Meye. The God of the Gospel of John. USA: William B. Eerdmans Publishing, 2001.
13. Tuấn Hoàng Minh. Lời Nguyện Siêu Thời Gian. Hà Nội: Tôn Giáo, 2007.
Từ điển tra cứu
14. Duff, Jeremy. The Elements of New Testament Greek AΩ. USA: Cambridge, 2004.
15. Green, Joel B, Scot McKnight & I. Howard Marshall. Dictionary of Jesus and the Gospels. USA: A Compedium of Contemporary Biblical Scholarship, 1992.
16. Bill T. Arnold & H.G.M Williamson. Editors. Dictionary of the Old Testament Historical Books. IVP Academic.
17. Perschbacher, Wesley J. The New Analytical Greek Lexicon. USA: Hendrickson, 2006.
18. Quang Phạm Hữu. Giải Thích Thánh Kinh. Đồng Nai: 2020.
Đề tài nghiên cứu & trang mạng
19. Nguyễn Quang Bình. Thiên theo Quan Niệm của Tứ Thư. HCM: HVCGVN, 2020.
20. https://catholic-resources.org
21. https://biblicaltext.com/dictionary
22. https://biblehub.com
23. BibleWorks 10.
24. https://tgpsaigon.net
Hoàng Minh Tuấn, Lời Nguyện Siêu Thời Gian (Hà Nội: Tôn Giáo,
2007), Trang bìa.
“Since
the sixteenth century, this chapter has been called the "high priestly
prayer" of Jesus. He speaks as intercessor, with words addressed directly
to the Father and not to the disciples, who supposedly only overhear. Yet the
prayer is one of petition, for immediate (6-19) and future (20-21) disciples.
Many phrases reminiscent of the Lord's Prayer occur.” (The New American
Bible, 1214.)
“To introduce
background material into a narrative now (with no temporal sense) or
left untranslated (Jn 11.18; this use is especially characteristic of John's
Gospel)”.
Friberg,
Analytical Greek Lexicon (BibleWorks 10).
βίος, ου: life,
means of living, sustenance, maintenance, substance, goods
Danh từ βίος diễn đạt về sự sống,
sinh mệnh, đời sống thường ngày, phương kế sinh nhai, hay sở hữu của cải, tài sản
(xem. Lc 8,14 ; 1 Tm 2,2 ; Mc 12,44).
ψυχή
nghĩa ngữ giống nephesh trong Kinh Thánh Cựu Ước.
James Swetnam, An Introduction to the Study of New
Testament Greek (Roma: Editrice Pontificio Istituto Biblico, 1998),
33-34.
“Γινώσκω:
to know, whether the action be inceptive or complete and settled; to perceive,
Matt. 22:18; Mark 5:29; 8:17; 12:12; Luke 8:46; to mark, discern, Matt. 25:24;
Luke 19:44; to ascertain by examination, Mark 6:38; John 7:51; Acts 23:28; to
understand, Mark 4:13; Luke 18:34; John 12:16; 13:7; Acts 8:30; 1 Cor. 14:7, 9;
to acknowledge, Matt. 7:23; 2 Cor. 3:2; to resolve, conclude, Luke 16:4; John
7:26; 17:8; to be assured, Luke 21:20; John 6:69; 8:52; 2 Pet. 1:20; to be
skilled, to be master of a thing, Matt. 16:3; Acts 21:37; to know carnally,
Matt. 1:25; Luke 1:34; from the Hebrew, to view with favor, 1 Cor. 8:3; Gal.
4:9”. (The New Analytical Greek Lexicon, 80.)
“Số là có một người thợ bạc tên là Đêmếtriô, chuyên
làm mô hình đền nữ thần Áctêmi bằng bạc và nhờ đó đem lại cho các người thợ một
nguồn lợi không nhỏ. Ông ta tập hợp họ và những người làm nghề tương tự và
nói: “Thưa các bạn, các bạn thừa biết là nhờ việc làm ăn này mà chúng ta phát
tài. Thế mà, như các bạn thấy và nghe biết: không những ở Êphêxô này, mà gần
như trong khắp cả Axia, tên Phaolô ấy đã thuyết phục và làm cho một đám đông
đáng kể thay lòng đổi dạ, khi hắn nói rằng thần linh do tay người làm ra không
phải là thần. Như vậy, có nguy cơ là không những ngành nghề của chúng ta bị
chê bai, mà cả đền thờ đại nữ thần Áctêmi cũng bị người ta coi chẳng ra gì và rốt
cuộc vị nữ thần mà toàn Axia và cả thiên hạ tôn thờ cũng chẳng còn gì là vĩ đại
nữa.”
“Theos
often attracts a variety of qualifying and descriptive phrases and adjectives
to it. Apparently the unadorned "God" simply does not say enough
about the deity in question. As an example, we may cite the book of Sirach,
where the absolute "God" is seldom used, and even "God" in various
combined forms appears rarely. More common are Lord and the Most High. Other
epithets are also found, such as Mighty One, Almighty, Maker, Master, and
sometimes these terms are used in combination with Lord or Most High.”
(Marianne, 29-30).
“Thiên Chúa chúng ta ở
trên trời, muốn làm gì là Chúa làm nên. Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ
do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có
tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không
bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng.” (Tv 115,3-7).
“There are
numerous instances of texts that identify God in relationship to one human
being. Thus, for example, we find "the Lord, the God of Joseph" (Jos.
Asen. 3:4; 6:7; 21:4); "Lord God of my father Israel" (Jos. Asen, 8:9);
"O Lord God and King, God of Abraham" (Add. Esth. 13:15; 14:18);
"the Lord Almighty, God of Israel" (Bat. 3:1, 4); "Lord God of
my ancestor Simeon" (Jdt. 9:2); "God of my ancestor, God of Israel's
heritage" (Jdt. 9:12); "Lord God of Daniel" (Bel. 41); and
"Lord God of Shem" (Jub. 8:18)”
(Marianna
Meye Thompson, The God of the Gospel of John (USA: William B. Eerdmans
Publishing, 2001), 26.)
“Father"
about 120 times, more often than all the other Gospels combined. By comparison,
"God" (θεός) appears in John 108 times.
(Marianne,
57.)
σὲ
pronoun personal accusative singular from σύ
(The New Analytical Greek Lexicon, 367).
Adjective normal
accusative masculine singular no degree from μόνος,
η,
ον
Kinh Thánh Cựu Ước
có nhắc đến tên Giô-suê con ông Nun. Ông là phụ
tá của ông Mô-sê (Gs 1,1), là người kế vị Mô-sê (Moses' successor) dẫn dắt
dân vào đất hứa: “Lều ấy, cha ông chúng ta đã kế
thừa và đã cùng với ông Giô-suê” (Cv 7.45). Nhưng ông không thật sự phải
là người cứu dân (Kitô) để đưa dân vào chốn yên nghỉ như Thiên Chúa hứa: “Thật vậy, nếu ông Giô-suê (Ἰησοῦς) đã cho họ được yên
nghỉ, thì sau đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa” (Dt 4.8). Ngoài ra, Cựu Ước cũng có nhắc đến: “E con Giê-su, Giê-su con
Ê-li-e-de” (Lc 3.29). Trong Tân Ước có nhắc
đến “Anh Giê-su (Ἰησοῦς), gọi là Giút-tô” (Col 4.11). Trong ngữ cảnh này cả Giô-suê, Giê-su con Ê-li-e-de, và Giê-su Giút-tô không
phải là đối tượng mà Ga 17,3 nói tới.
Thiên Chúa với ý định tự do, nhân lành và khôn ngoan của Mình, Ngài muốn chia sẻ sự sống
thần linh (sự sống đời đời), muốn con người được sự sống đời đời trong Chúa
Con là Giêsu (GS 40). Đấng Kitô được Cha sai đến “muốn mọi người được cứu rỗi
và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, một trung
gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là một con người, Chúa Kitô
Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1 Tm 2,4-6), “và không có
ơn cứu độ nơi một người nào khác” (Cv 4,12; AG 7).
“Trong Đức
Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan
Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý
muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng
cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta
được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của
Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan
thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch
yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi
viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức
Ki-tô.” (Ep 1,4-10).