PHÂN TÍCH VÀ CHÚ GIẢI ĐOẠN KINH THÁNH 2Sm 7,1-29
Micae Hoàng Tâm STB-K1
Bản
văn: 2Sm 7,1-29[1]
1 Khi vua được yên cửa yên nhà và ĐỨC CHÚA đã cho
vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa,2 thì vua
nói với ngôn sứ Na-than: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia
Thiên Chúa thì ở trong lều vải.”3 Ông Na-than thưa với vua: “Tất cả những gì
ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì ĐỨC CHÚA ở với ngài.”
4 Nhưng ngay đêm ấy, có lời ĐỨC CHÚA phán với ông
Na-than rằng:
5 “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC
CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?6 Thật
vậy, từ ngày Ta đưa con cái Ít-ra-en lên từ Ai-cập cho tới ngày hôm nay, Ta
không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một cái lều và
trong một nhà tạm.7 Trong suốt thời gian rày đây mai đó với toàn
thể con cái Ít-ra-en, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một trong các thủ lãnh
Ít-ra-en mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta là Ít-ra-en: “Sao các ngươi không xây
cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương?8 Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là
Đa-vít như sau: ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi,
từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en.9 Ngươi
đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất
mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ
nhân trên mặt đất.10 Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta
sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân
gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu,11 kể từ
thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được
thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA
lập cho ngươi một nhà.12 Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã
nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người
do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.13 Chính
nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững
bền mãi mãi.14 Đối với nó, Ta sẽ là
cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của
người phàm, bằng đòn của con người.15 Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như
Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi.16 Nhà
của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng
của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.”
17 Ông Na-than đã nói lại với vua Đa-vít, đúng y
như tất cả những lời ấy và tất cả thị kiến ấy.
18 Vua Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan ĐỨC CHÚA và
thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã
đưa con tới địa vị này?19 Nhưng lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn
coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài.
Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng?20 Đa-vít
còn nói được gì thêm với Ngài? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa
Thượng!21 Vì
lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công
trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết.22 Vì
thế, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như
Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai
chúng con đã từng được nghe.23 Dưới đất có một dân tộc nào được như dân
Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của
Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu
xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu
chuộc từ Ai-cập về cho mình.24 Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành
dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của
chúng.25 Giờ
đây, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó,
xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán.26 Danh
Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: “ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa
thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài.27 Thật
vậy, lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải
cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can
đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy.28 Giờ
đây, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán
là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy.29 Vậy
giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn
tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài đã
phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi.”
Dẫn nhập
2Samuel 7 là chương quan trọng
nhất của sách Samuel. Chương này nói về đỉnh điểm của cuộc đời David. Mặc dù ở
đoạn 2Sm 1-6, bản văn đã cho biết David làm được nhiều việc lớn lao như: dẹp
yên nội chiến, đẩy lùi ngoại xâm, ổn định tình hình chính trị, và rước hòm bia
Thiên Chúa về, nhưng các việc đó không làm cho ông trở nên vĩ đại. Theo bản văn
điều làm cho David trở nên vĩ đại là Thiên Chúa mạc khải cho ông và nhân loại
biết về vương triều vĩnh cửu, vương triều mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Cụ
thể, nổi bật nơi bản văn 2Sm 7,1-29 là lời hứa vương triều vĩnh cửu, điều này ảnh
hưởng đến toàn bộ sách Samuel, ảnh hưởng đến Cựu Ước, và Tân Ước. Hơn nữa, bản
văn 2Sm 7,1-29 còn gợi lên cho người tin qua mọi thời đại bài học về niềm hy vọng
để sống đức tin, tăng thêm sức mạnh để vượt qua các cơn khủng hoảng và cơn gian
nan thử thách.
I. Bối cảnh và Cấu trúc bản văn
Khung cảnh gần của đoạn 2Sm
7,1-29 thuộc một trong mười hoạt động chính của David sau khi lên ngôi (2Sm
2-8). Các hoạt động bao gồm: David trị vì Giu-đa (2Sm 2,1-7), dẹp yên nội chiến
(2Sm 2,8-3,5), thống nhất đất nước (2Sm 3,6-5,5), làm vua toàn cõi Israel (2Sm
5,1-5), đánh chiếm Giêrusalem và thành lập thủ đô mới của Israel (2Sm 5,6-16),
chiến thắng quân Philitinh (2Sm 5,17-25), và đưa hòm bia giao ước về Giêrusalem
(2Sm 6), lời hứa về triều đại vĩnh cửu cho David (2Sm 7), những cuộc chiến
trong thời vua David (2Sm 8). Khung cảnh xa của bản văn 2Sm 7,1-29 thuộc phần
III của sách Samuel (2Sm 6-20). Sách Samuel được chia thành bốn phần chính: phần
I nói về Samuel và Saul (1Sm 1-15), phần II nói về David lên ngôi (1Sm 16- 2Sm
5), phần III nói về kế vị ngai vàng của David (2Sm 6-20), phần IV là phụ chương
(2Sm 21-24).[2]
Như vậy từ khung cảnh bản văn
đã cho thấy sự thay đổi sâu sắc trong tư tưởng của David. Cụ thể, ở đoạn văn liền
trước 2Sm 6, 1-23 David vui mừng hớn hở vì rước được hòm bia về, ông tưởng rằng
mọi điều mình làm tiếp theo sẽ đẹp lòng Đức Chúa. Nhưng ở đoạn văn liền sau 2Sm
7,18-29 ông đã ăn năn hối lỗi và nhận ra lỗi lầm của mình khi đưa ý định của
mình đi trước ý định của Thiên Chúa.
Bản văn 2Sm 7,1-29 được chia thành
hai phần chính, cách chia chủ yếu theo nội dung và diễn biến câu chuyện, nên số
lượng câu sẽ có sự chênh lệch nhau giữa các phân đoạn.
Phần một: 7,1-3 với nội dung: David
đề nghị xây nhà cho hòm bia Thiên Chúa.
Phần hai: 7, 4-17 với nội dung:
lời hứa của Thiên Chúa về một vương triều vững bền cho David và dòng dõi ông.
Phần ba: 7,18-29 với nội dung:
lời cầu xin của David. [3]
II. Chú Giải và Ý Nghĩa của Bản Văn 2Sm 7,1-29
Phần này sẽ trình bày ba ý chính
dựa theo nội dung của bản văn tức là ba phân đoạn 2Sm 7,1-3; 2Sm 7,4-17; và 2Sm
18-29, với mục đích tìm hiểu và khảo sát một số điểm nhấn và ý nghĩa trong đoạn
2Sm 7,1-29.
2.1
David
Đề Nghị Xây Nhà Cho Hòm Bia Thiên Chúa
Phân đoạn đầu tiên có hai nhân
vật chính là David và Nathan với nội dung “David đề nghị xây nhà cho hòm bia
Thiên Chúa các câu 1-3”. Đoạn này nổi lên hai điểm nhấn: kế hoạch xây nhà của David,
và thái độ mau mắn của Nathan.
2.1.1 Kế Hoạch Xây Nhà của David
Việc David đưa ra kế hoạch xây
nhà, dựa trên bối cảnh thuận lợi: “Khi vua được yên cửa yên nhà và ĐỨC CHÚA đã
cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, thì vua nói với
ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên
Chúa thì ở trong lều vải.”” (2Sm 7,1-2). Việc
vua muốn xây “nhà” cho Thiên Chúa có nhiều lý do. Lý do đầu tiên mang yếu tố chính
trị, điều này được lộ rõ nơi lời trăng trối của David với Solomon: “Này con, giờ
đây xin ĐỨC CHÚA ở với con, cho con hoàn thành tốt đẹp công trình xây dựng nhà
ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của con, như Người đã phán về con.” (1 Sb 22,11). Lý do thứ
hai ông xây đền thờ để xây tên tuổi: “Vua Đa-vít nói: “Solomon con ta còn trẻ
người non dạ, và ngôi nhà sắp xây kính ĐỨC CHÚA phải được cả thiên hạ coi là thật
nguy nga, lẫy lừng và tráng lệ. Nào ta hãy chuẩn bị cho nó!” Thế là vua Đa-vít
chuẩn bị hết sức chu đáo trước khi qua đời.” (1 Sb 22,5)
Ý định xây đền thờ được tỏ lộ,
vì ý định xây nhà bắt đầu xuất hiện sau khi vua đã dẹp yên mọi sự chống đối và
thống nhất đất nước. Điểm này giống nhiều người khi lên làm vua đều có khuynh
hướng xây thành, cung điện, hoặc đền thờ để thị uy dân chúng, mua chuộc thần
linh, tạo uy thế với các nước lân bang.[4] Hơn nữa, vua David xây đền
thờ còn có mục đích để xây tên tuổi nhà vua: “Vua David nói: “ngôi nhà sắp xây
kính ĐỨC CHÚA phải được cả thiên hạ coi là thật nguy nga, lẫy lừng và tráng lệ”
(x. 1Sbn 22,5). Ngoài ra, ý định xây nhà của David có sự đồng thuận cao từ ngôn
sứ Nathan, và sự đồng thuận này được xem như là dấu chỉ của thần linh, là sự bảo
đảm của Thiên Chúa cho ngai vàng của ông.
2.1.2 Thái Độ của Nathan
Thái độ của Nathan được thể hiện
qua lời của ông: “Ông Nathan thưa với vua : “Tất cả những gì ngài ấp ủ trong
lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì ĐỨC CHÚA ở với ngài.”” Lần đầu tiên
Nathan xuất hiện với danh hiệu ngôn sứ và không có tài liệu nào nói về nguồn gốc
của ông. Điều này khác với toàn bộ các ngôn sứ khác trong cựu ước vì họ đều được
giới thiệu về nguồn gốc và xuất thân của họ. Cụ thể, ngôn sứ Amos được giới thiệu
là một người chăn cừu (x. Am 1,1; 2V
3,4), quê ở Teqôa (x. 2Sbn 11,6). Ngôn sứ Isaiah ngay từ đầu sách cũng đã giới
thiệu tên tuổi, quê quán và thuộc thời đại vua nào (x. Is 1,1).
Sự xuất hiện đột ngột của
Nathan đi kèm thái độ đồng ý mau mắn với kế hoạch của David. Cho thấy vai trò của
ông như là cố vấn trong triều đình. Hơn nữa, sự đồng ý nhanh nhạy này còn cho
thấy ông đã hiểu được ý định xây đền thờ của David, mặc dù không nói trực tiếp
nhưng sự hiểu đó được biểu lộ ra qua việc lập tức đồng ý. Điều này nhấn mạnh đến
vai trò cố vấn của ông. Thái độ này cho thấy ông đang làm việc cho vừa lòng David
chứ không phải theo ý Thiên Chúa. Điều này đi khác với sự xuất hiện của các ngôn
sứ khác. Cụ thể, nơi các ngôn sứ khác họ sẽ nhận lệnh Chúa, sau đó đi loan truyền.
Điều này có thể đọc thấy nơi Hôsê. Khi ông trình bày sứ điệp của ông một cách đặc
biệt sau khi nhân lệnh Chúa, ông cưới lấy bà Gomer, có lẽ là một người phụ nữ
đã bán mình nơi đền thờ Cananeo (x. Hs 4,13-14). Điệp khúc này được lặp lại nơi
Giô-na. Sau khi ông nhận lệnh từ Thiên Chúa là đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn,
và hô cho dân thành biết về sự gian ác của chúng. (x. Gn 1,1). Chính việc
Nathan làm vừa lòng David dẫn đến nguy cơ. Kế hoạch của David đi trước kế hoạch
của Thiên Chúa, đưa đến việc tiếm quyền Thiên Chúa, và đặt Thiên Chúa ở dưới
quyền của David.
2.2
Lời của
Thiên Chúa Nói Qua Ngôn Sứ Na-Than
Phần hai: Thiên Chúa hứa về một
vương triều vững bền cho David và dòng dõi ông. Phần này nổi lên hai điểm chính
là Thiên Chúa từ chối kế hoạch của David, và lời hứa về vương triều vĩnh cửu.
2.2.1
Thiên
Chúa Từ Chối Kế Hoạch của David
Thiên Chúa từ chối kế hoạch của
David: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là David: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà
xây nhà cho Ta ở sao?”. Một câu đầy tính mỉa mai, nhưng là cảnh tỉnh cho David
và Nathan biết rằng ai mới là người có quyền thực sự. Hơn nữa, việc Thiên Chúa
thể hiện quyền tối thượng của Ngài gợi về các câu chuyện khác trong Thánh Kinh
như: câu chuyện của Moses (Xh 32) khi ông xuống núi và ra tay với những người
thờ bò vàng, mặc dù trước đó Moses đã xin Thiên Chúa đã tha cho họ. Sau đó
Thiên Chúa đã sai thiên sứ đi trước mặt ông, kẻo ông lại đi trước Chúa, rồi lại
gây ra hậu quả nghiêm trọng khác. Tân Ước cũng có câu chuyện tương tự khi
Phê-rô ngăn cản Đức Giê-su lên Giêrusalem, Ngài đã mắng ông là Sa-tan và bảo
ông lui lại phía sau Thầy (x. Mc 8, 33; Mt 16, 23). Vì đi trước Thầy, đi trước
Thiên Chúa chỉ có gây nên đổ vỡ và hư hoại và đó là việc làm của quỷ, của
Sa-tan, là phá đám, là chết chóc như các câu chuyện khác từng xảy ra.
Việc Thiên Chúa can thiệp làm
cho Nathan và David thay đổi. “Ông Na-than đã nói lại với vua David, đúng y như
tất cả những lời ấy và tất cả thị kiến ấy.” (2Sm 7, 17). Nathan đã dám nói, và
nói hết những điều Thiên Chúa muốn ông nói cho vua. Điều này cho thấy ông đã ý
thức được vai trò của ngôn sứ, là để nói lên tiếng nói của Thiên Chúa chứ không
phải ngôn sứ là để làm vừa lòng vua.[5] Về phần David sau khi nghe
lời Thiên Chúa từ ngôn sứ Nathan ông đã thay đổi lập trường và dâng lời khẩn
xin lên Thiên Chúa “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là
gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này?” (2Sm 7,18). David nhận ra rằng quyền lực
thực sự không nằm trong tay ông, và ông đã chân nhận, tin tưởng vào lời hứa của
Thiên Chúa. Nhưng cho dù ý định của David là gì Thiên Chúa vẫn muốn qua ông để ban
lời hứa.
2.2.2 Lời hứa Của Thiên Chúa
Sau
khi Thiên Chúa nhắc nhở cho David và Nathan ý thức được vai trò và vị trí của
mình. Thiên Chúa đã tỏ lộ lời hứa của Ngài là sẽ làm cho ngai vàng David được vững
bền (x. 2Sm 7, 13). Việc làm này cho thấy Thiên Chúa mới là chủ thể của mọi
hành động, và là nhân vật chính khởi xướng việc xây nhà chứ không phải ai khác.
Mà Thiên Chúa không chỉ đơn thuần xây một ngôi nhà vật lý, việc Ngài làm còn
cao cả hơn nhiều là: “Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi”. Nhưng
triều đại của David đã chấm dứt sau thời vua Salomon năm 587 TCN.[6] Vậy lời hứa này có được ứng
nghiệm không? Thật vậy, để hiểu được lời hứa long trọng này cần nhìn trong tổng
thể dòng chảy của lịch sử cứu độ. Điều này có thể tìm thấy trong Sáng Thế khi
Jacop trao vương quyền cho chi tộc Judah: Vương trượng sẽ không rời khỏi Judah,
gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến,
người mà muôn dân phải vâng phục. (St 49:10). Ngoài ra lời hứa này còn được
long trọng nhắc lại trong Thánh Vịnh 89 và Jeremiah 33. Lời hứa này đem đến tư
tưởng mong đợi Đấng Cứu Thế, là nền tảng để các ngôn sứ loan báo về triều đại của
Thiên Chúa, ngày Israel được giải thoát.
2.3
Lời Thỉnh
Cầu của David
Sau khi David nghe ngôn sứ
Nathan nói cho biết ý định của Thiên Chúa về kế hoạch xây đền thờ. Ông đã dâng
lời thỉnh cầu lên Thiên Chúa. Trong đoạn này nổi lên điệp khúc “Lạy ĐỨC CHÚA là
Chúa Thượng” mà David dùng để kêu cầu Thiên Chúa. Điệp khúc này xuất hiện bảy lần
trong đoạn văn. Tuy nhiên, ở đây không phải là lần đầu tiên lời kêu van lạy Đức Chúa là Chúa Thượng xuất hiện
trong Kinh Thánh. Lần đầu lời này xuất hiện ở sách Sáng Thế trong bối cảnh
Thiên Chúa thiết lập giao ước với Abraham (St 15,2-8) khi ông đứng trước cơn khủng
hoảng vì chờ mãi lời Thiên Chúa hứa sẽ làm cho ông một dòng dõi vẫn chưa thành
hiện thực, nhưng sau đó Chúa đã thiết lập giao ước với ông và lời hứa về dòng
dõi đã ứng nghiệm.[7]
Như vậy, lời khẩn cầu này của David được cất lên sau lời Thiên Chúa hứa về
vương triều vĩnh cửu, muốn nói lên rằng lời hứa này chắc chắn sẽ thành hiện thực.
Mặc dù, triều đại trần thế David đã sụp đổ nhanh chóng sau đó. Và lời hứa này
muốn nói đến vương triều của Đức Giê-su, Đấng sẽ đến như lời đã hứa.
Ngoài ra, lời khẩn cầu này còn
xuất hiện ở Đnl 9,26; Gs 7,7; Tl 16,28; 1Sm 23,10 khi Mô-sê, Gio-sua, Sam-sôn dâng
lời khẩn cầu xin Thiên Chúa giúp cho qua khỏi cơn nguy khốn, hoặc xin tha thứ
các lỗi lầm. Không những vậy, điệp khúc “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng” còn được
sử dụng trong các lời ca tụng Thiên Chúa: Nkm 1,5; Tv 59,5; Ed 36,3; Kh 11,3;
15,7. Những lời của những người tôi tớ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã được tha
tội, và họ tạ ơn vì mọi ơn lành đã được nhận. Như vậy, khi David kêu cầu Thiên
Chúa bằng điệp khúc “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng” đã bao hàm trong trong đó lời
thỉnh cầu trong cơn khủng hoảng, cụ thể ở đây là kế hoạch xây đền thờ bị bác bỏ,
ít nhiều ông mang tâm lý chán nản và thất vọng (x. 2Sm 7,19). Hơn nữa, lời này
của ông, còn đi theo nội dung ca tụng Thiên Chúa vì ông nhận thấy biết bao ơn
lành mà ông đã nhận được trong thời gian qua (x. 2Sm 7, 22). Không những vậy,
David còn tỏ lộ sự ăn năn thống hối, khi nhân thấy sai lầm của bản thân dám đặt
ý mình trước ý Thiên Chúa. Từ đó ông nhận ra được bản thân mình là một tôi tớ
thấp hèn, đâu là vị trí của mình.
Ngoài ra, trong đoạn văn còn xuất hiện điệp khúc: “lạy ĐỨC CHÚA”, và “lạy
ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa” mặc dù hai điệp khúc này xuất hiện một lần, nhưng đóng
vai trò như là cầu nối để dẫn tới một danh xưng khác. Danh xưng: “ĐỨC CHÚA các
đạo binh” danh xưng này lần đầu xuất hiện ở 1Sm 1,3 trong bối cảnh dân đòi có một
vị vua, sau đó danh này liên tục xuất hiện trong toàn bộ sách Sm. Nhưng điều đặc
biệt là, hiện tại David đang là vua. Và chính ông cũng kêu xin như vậy điều này
chứng tỏ vị vua thật sự là Thiên Chúa, từ đó bản văn cho phép hiểu rằng
David đã thừa nhận quyền làm chủ của Thiên Chúa. Câu tiếp theo David đã khẳng định
Thiên Chúa là Đấng thống trị Ít-ra-en và xưng mình là tôi tớ (x. 2Sm 7, 26 ). Điều
này càng nhấn mạnh đến người nắm quyền thật sự là Thiên Chúa, và David đã nhận
ra điều đó. David còn dùng một danh xưng khác “lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên
Chúa của Ít-ra-en” (x. 2Sm 7, 27) khi nói danh xưng này tức là nói đến quyền của
một vị vua được tỏ lộ nơi quân đội, bây giờ ông xưng tụng Thiên Chúa các đạo
binh, mà không phải là đạo binh của một dân nào khác của chính dân ông đang làm
vua. Điều này nói đến việc thừa nhận toàn quyền thuộc về Thiên Chúa.
2.4
Ý
Nghĩa
Như vậy, đoạn 2Sm 7,1-29 nói về
kế hoạch xây nhà của David nhưng kế hoạch này đã bị Thiên Chúa thay đổi và ban
cho lời hứa vương triều vĩnh cửu. Mặc dù kế hoạch của David ẩn tàng nhiều vấn đề
và mưu đồ chính trị. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp vào kế hoạch này và nói rõ ý
của Ngài. Ngài cho biết việc xây nhà là chuyện nhỏ, vì trước kia không có cũng
đâu có sao (x. 2Sm 7,6-7). Nhưng quan trọng nhất là ý định của Thiên Chúa được
tỏ lộ. Từ đó David và Nathan ý thức được vai trò, vị trí và thân phận của mình
trước mặt Thiên Chúa là tôi tớ. Điều này được Thiên Chúa cho biết cách minh
nhiên ở phân đoạn sau. Không những thế, đoạn Kinh Thánh này còn có có ảnh hưởng
quan trọng đến toàn bộ sách Samuel, và Kinh Thánh nói chung.
III.
Tầm
quan trọng của đoạn văn
Đoạn này có ý nghĩa đặc biệt
trong toàn bộ sách Samuel và trong Cựu Ước. Vì nhấn mạnh đến lời hứa về vương
triều vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho David và dòng dõi. Lời hứa này mang đến niềm
hy vọng lớn cho dân Israel, đặc biệt trong thời lưu đày. Chính lời hứa này là
nguồn sức mạnh nâng đỡ đời sống tinh thần của dân tộc và niềm hy vọng khôi phục
lại triều đại của David trong tương lai.
Với Tân Ước đoạn 2Sm 7, 1- 29
mang ý nghĩa lớn, là điểm quy chiếu nền tảng để chứng minh Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a.
Cụ thể, ngay câu đầu tiên của Tin Mừng Mát-thêu đã cho thấy điều này: “Đây là
gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua David, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Mt
1,1). Khi Phao-lô giảng cho người Do-thái tại An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a
cũng đã dùng dữ liệu của 2Sm 7, 1-17 để khẳng định rằng: “Ta đã tìm được David,
con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. Từ dòng
dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ
là Đức Giê-su.” (x. Cv 13,22-23). Ngay cả điệp khúc “Đối với nó, Ta sẽ là cha,
đối với Ta, nó sẽ là con” trong 2Sm 7,14 được lặp lại trong thư Híp-ri và
2Cô-rin-tô (x. Hr 1,5; 2Cr 6,16-18). Ngai vàng David đã được thiên thần Gabriel
khẳng định thuộc về Đức Giê-su (x. Lc 1,32).
Như vậy, đoạn 2Sm 7,1-29 mang
ý nghĩa sâu sắc trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì nếu thiếu đoạn này
thì toàn bộ sách Samuel sẽ đánh mất đi niềm hy vọng, bởi lẽ một dân tộc mới
thay đổi thể chế chính trị còn quá non trẻ để đương đầu với các dân xung quanh.
Và thực tế triều đại David đã bị tắt ngấm trong bóng đêm lịch sử. Thiếu đoạn
này các ngôn sứ sẽ mất đi căn cứ, hay nền tảng để loan báo về Ngày Của Thiên
Chúa là ngày mang đến bình an và giải thoát cho dân, để kêu gọi dân quay về sau
khi phạm tội. Nếu thiếu đoạn này Tân Ước thiếu điểm quy chiếu để chứng minh Đức
Giê-su là Đấng được ban theo lời hứa để giải thoát muôn dân.
IV. Bản Văn Nói Gì Với Độc Giả Ngày Nay
Bản văn mời gọi độc giả ngày
nay trên hành trình đức tin, luôn biết đặt kế hoạch của mình vào trong và ở vị
trí phía sau ý của Thiên Chúa, bởi lẽ chỉ khi con người để cho Thiên Chúa dẫn dắt
mình theo kế hoạch của Ngài, thì con người mới tìm được cho mình cùng đích và ý
nghĩa thực sự cho cuộc đời. Còn khi con người đi trước Thiên Chúa dẫn đến nhiều
nguy cơ đỗ vỡ và sai lệch, điều này đã được Kinh Thánh chứng minh rất rõ. Hơn nữa,
việc con người đặt ý mình trước ý Thiên Chúa tiếm quyền của Ngài và đang đi vào
ảo tưởng dẫn Thiên Chúa theo ý riêng của mình.
Bản văn còn nói đến vai trò của
tiếng nói ngôn sứ trong cuộc sống. Thật vậy, ở bất kỳ thời đại nào, luôn có những
bất công, tội lỗi, đặc biệt là xâm phạm đến quyền tối thượng của Thiên Chúa. Bản
văn cho biết người có vai trò ngôn sứ phải luôn đứng về phía Thiên Chúa, nói lời
của Thiên Chúa nhờ đó mà thánh ý Thiên Chúa được tỏ lộ. Để nhiều người đang ở
trong tình trạng sai trái biết nhận ra tiếng Chúa, thay đổi đường lối của mình
mà đi theo ý Thiên Chúa. Từ đó mời gọi độc giả là những người tin ngày nay cất
cao tiếng nói ngôn sứ để lời của Thiên Chúa được lan rộng khắp nơi. Để cho muôn
dân được cảnh tỉnh mà thay đổi nếp sống cho hợp với ý Thiên Chúa. Bản văn cũng
nói cách gián tiếp đến lòng nhân từ của Thiên Chúa, khi Ngài đã biết rõ tôi tớ
ngài là David và Nathan đã làm sai ý của Ngài nhưng vẫn không trách phạt, trái lại
Ngài nhắc điều phải lẽ để thi hành. Hơn nữa Thiên Chúa còn dùng luôn sai lỗi của
tôi tớ Ngài để ban lời hứa cứu độ cho nhân loại. Từ đó người tin ngày nay có
quyền hy vọng về lòng thương xót, hy vọng về ơn tha thứ sau khi đã gặp thất bại
sa ngã.
Kết luận
Như vậy, việc David dự định
xây nhà cho Thiên Chúa mặc dù khởi đi từ ý định cá nhân mang màu sắc chính trị
nhưng lại được Thiên Chúa uốn nắn sự lầm tưởng và sai trái đó, để chương trình
cứu độ được tỏ lộ. Nhờ đó, người tin ngày nay rút ra cho mình các bài học
thiêng liêng để sống đời sống đức tin. Thật vậy, lời hứa ở trong 2Sm 7,1-29 được
xuất hiện để khai mở thời đại mới, thời đại của những con người sống tình yêu
tác sinh của Thiên Chúa. Những người này chăm chỉ cầu nguyện và gặp các vị hữu
trách trong Giáo Hội để nghe được lời giảng dạy của Thiên Chúa. Nhờ đó, họ biết
này biết đặt mình dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa trong thời đại họ đang sống.
Từ đó, họ không lấy ý riêng làm trung tâm quyết định cuộc sống, nhưng là mở ra
cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện cách hoàn hảo trong đời sống mình. Đồng
thời, họ cũng biết mở ra sự bảo thủ, kiêu ngạo, bon chen của cuộc đời, để Thiên
Chúa bước vào và đổi mới tất cả. Nhờ lời hứa của Thiên Chúa, nhân loại được ơn
cứu độ, được hy vọng, và được đổi mới. Từ đó, người tin biết sống yêu thương và
tác phúc cho mọi người.
Thư Mục Tham Khảo
1. PVGK., Kinh
Thánh. Cựu Ước và Tân Ước (Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2011) [dẫn nhập, bản
văn và chú thích].
2. Arnold
B. T., 2 Samuel 7,1-29 (The NIV
application commentary), Michigan 2003.
3. Giu-se
Nguyễn Ngọc Vinh, SDB, Các Sách Sử Trong
Kinh Thánh, Đại Học Giáo Hoàng Salêđiêng Học Viện Thần Học Philip Rinaldi,
giáo trình dành cho sinh viên, 2020-2021.
4. Vincent
M. Phạm Cao Quý, CSsR, Các Sách Ngôn Sứ, Hồ
Sơ 1: dẫn nhập tổng quát, giáo trình của lớp thần học 2, Học Viện Công Giáo Việt
Nam, 2020-2021.
[1]
Đoạn Việt ngữ này được lấy từ bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, ấn bản
2011.
[2]
Cf, Giu-se Nguyễn Ngọc Vinh, SDB, Các
Sách Sử Trong Kinh Thánh, Đại Học Giáo Hoàng Salêđiêng Học Viện Thần Học
Philip Rinaldi, giáo trình dành cho sinh viên, 2020-2021, 126.
[3]
Ibid, Giu-se Nguyễn Ngọc Vinh, SDB, 275.
[4]
Ibid, Giu-se Nguyễn Ngọc Vinh, SDB, 283.
[5]
Cf. Vincent M. Phạm Cao Quý, CSsR, Các
Sách Ngôn Sứ, Hồ Sơ 1: dẫn nhập tổng quát, giáo trình của lớp thần học 2, Học
Viện Công Giáo Việt Nam, 2020-2021, 10.
[6]
Ibid, Giu-se Nguyễn Ngọc Vinh, SBD, 127.
[7]
Arnold B. T., 2 Samuel 7,1-29 (The NIV
application commentary), Michigan 2003, 481.