NỘI DUNG NỀN THẦN HỌC BÍ TÍCH HÒA GIẢI QUA CÁC THỜI ĐẠI | Thư viện Học viện Công giáo Việt Nam

NỘI DUNG NỀN THẦN HỌC BÍ TÍCH HÒA GIẢI QUA CÁC THỜI ĐẠI



Maria Cao Thị Oanh STB-K3


Suốt dòng lịch sử Công Giáo có nhiều bí tích ban ơn tha thứ và hòa giải. Trong đó, Thánh Tẩy là một bí tích đầu tiên có liên quan rõ ràng tới việc tha thứ tội lỗi. Bí tích này không chỉ nhìn nhận tội đã phạm, việc ăn năn sám hối mà còn cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài đến để cho con người được cứu độ, được sống một đời sống mới, được phục sinh với Ngài (Rm 6, 4-11). Vào thời các giáo phụ, bí tích này do Đức Giám mục chủ sự công khai, chỉ những người tội lỗi khét tiếng mới phải lãnh nhận và chỉ được nhận lãnh một lần. Thời trung cổ, giáo dân có thể ban ơn tha thứ…. Nhưng dù có những khác biệt, yếu tố chung của bí tích này bao gồm việc xưng thú tội lỗi, ăn năn sám hối, việc tha tội, được gọi là giải tội[1]. Ở đây, người viết xin trình bày đôi nét về lịch sử thần học của bí tích Hòa Giải qua các giai đoạn, sau cùng là lời nhận xét.

Trước hết, hạn từ Bí tích: dấu vết kín ẩn; hòa: thuận thảo; giải: cởi bỏ. Bí tích Hòa Giải là bí tích làm cho hối nhân nối lại mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa và với Hội Thánh[2]. Trong sách Giáo lý Công Giáo, Bí tích Hòa Giải được gọi là bí tích: Hoán Cải, Thú Tội, Tha Tội, Giao Hòa[3]. Qua các thế kỷ, bí tích Hòa Giải có nhiều biến chuyển và thay đổi khác nhau:

Trong Kinh Thánh, bí tích Hòa Giải thể hiện qua “lòng nhân từ của Thiên Chúa” (Lc 6, 36). Dẫu cho con người có cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa (x. St 3). Thế nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài (x. Ez 16, 59-63). Ngang qua cái chết, phục sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã tha thứ, phục hồi địa vị cho con người (x. Hs 2, 16-25), Ngài mong muốn chúng ta cũng phải thứ tha cho nhau, tha đến“bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22). Trong Hội Thánh tiên khởi, nghi lễ tha tội duy nhất là bí tích Thánh Tẩy[4]. Chính Đức Kitô và Hội Thánh mà Ngài thiết lập là bí tích của sự tha thứ của Thiên Chúa cho những ai gặp được Ngài và sống theo sứ điệp của Hội Thánh[5]. Đức Kitô đến để ở giữa tội nhân, quy tụ họ, để Ngài biến đổi họ (2Cr 5, 21). Nhờ Ngài mà từ nay không còn ai bị kết án, bởi nơi Ngài đã có ơn xá giải, tâm hồn con người “nên công chính để được sống đời đời” (Rm 5, 21). Thiết nghĩ, lòng thương xót của Thiên Chúa như mặt trời lúc nào cũng có, nhưng chỉ những ai sám hối (Lc 18, 13), thì mới được Thiên Chúa thứ tha.

Tiếp đến vào thời Giáo Phụ, việc giao hòa các Kitô hữu phạm các tội như thờ ngẫu tượng, giết người, ngoại tình kỉ luật khắc khe: hối nhân phải làm việc đền tội công khai[6]. Theo Hermas, một Kitô hữu tội nhân được nhận lãnh nghi thức hòa giải một lần duy nhất trong đời[7]. Việc sám hối công khai cho thấy Thiên Chúa là Ðấng hiện diện, gần gũi, quan phòng, thương xót[8] đối với những tâm hồn tan nát và Hội Thánh là nơi ta tìm được ơn giải thoát khỏi tội lỗi. Thế nhưng, ai được quyền tha tội? Đối với thánh Ambrôxiô, Augustinô, Chrysostom, Lêô I đều có những khẳng định khác nhau. Cụ thể như thánh Ambrôxiô nói: thừa tác viên tha tội là do nhân danh Thiên Chúa, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (Cl 3, 17). Theo thánh Augustinô, người ta được sạch tội là nhờ việc thống hối ăn năn, nhiều việc đền tội khác… Mục đích của việc sám hối là tẩy trừ tội lỗi, giải thoát khỏi cuộc sống phóng túng, nô lệ tư lợi, đưa tới cuộc sống yêu mến Thiên Chúa, phục vụ tha nhân. Tuy nhiên, vì không hiểu nên họ đã tránh tình trạng sám hối này[9].

Đến thời Trung Cổ, các thừa sai Ai Nhĩ Lan và Tô Cách Lan đưa ra hình thức xưng tội riêng[10], việc đền tội công khai không còn, bí tích được thực hiện kín đáo, các vị giải tội cầu xin Thiên Chúa ban ơn tha thứ và Linh mục mới có quyền tha tội. Công đồng Trentô chấp nhận lối xưng tội này. Yếu tố làm phát sinh hiệu quả của bí tích này là “lòng ăn năn” chứ không phải là lời xá giải[11]. Peter Lombard nhấn mạnh đến lòng sám hối ăn năn. Theo Thánh Tôma Aquinô, Bí tích thống hối vừa là của linh mục, vừa là của hối nhân. Phía hối nhân thì ăn năn sám hối, làm việc đền tội. Còn linh mục đọc lời xá giải. Thật vậy, Đức Kitô thiết lập bí tích này để giúp tội nhân từ bỏ tội lỗi, giao hòa với Thiên Chúa và hướng tới một cuộc sống công chính, thánh thiện.

 Thời Cải Cách, Luther cho rằng chỉ có sám hối mới đem lại ơn tha thứ. Sự tin tưởng, phó thác sống động của Kitô hữu là phương thế để bí tích có kết quả (Rm 10, 10). Công đồng Trentô cho việc xưng tội riêng là một bí tích, liên quan đến việc đền tội hơn là sám hối. Ơn tha thứ hệ tại những lời xá giải, vì lời xá giải tuyên bố việc tha tội của Thiên Chúa. Tuy nhiên, công đồng Trentô vẫn giữ một thái độ vụ luật đối với tội lỗi và ơn tha thứ, đã sai lầm khi giải thiết việc xưng tội thường xuyên có từ thời các tông đồ[12]. Sau công đồng Trentô, Bí tích Hòa Giải là cánh cửa của sự công bình, nhân ái; đòi hỏi con người phải tự vấn lương tâm; công bố sự tha thứ của Thiên Chúa; tha thứ cho chính mình và tha nhân, đụng chạm được cùng đích sự trưởng thành.

Đến thời Công đồng Vatican II đã đưa ra ba công thức giải tội như sau: sám hối và xưng tội riêng; bán công khai, nghĩa là xưng tội riêng, xá tội chung; ba là xưng tội tập thể và xá tội chung. Sau Vatican II, người ta không lãnh nhận bí tích như một tác động bên ngoài nhưng sống thực bí tích, nó trở thành kinh nghiệm sống. Với thời đại hiện nay, Giáo hội đề cao động cơ hơn: động cơ nào khiến cho người ta hành động như thế. Giáo hội đã sửa đổi nghi thức Hòa Giải ít tính cá nhân, nhiều tính cộng đoàn hơn, ít quan tâm đến việc kê khai các tội mà quan tâm hơn tới việc thay đổi tâm hồn. Thiết nghĩ, cái tốt hôm nay phải được xây dựng trên nền tảng là Đức Giêsu mới đem lại giá trị đích thực và chỉ những ai đi trên con đường mang tên Giêsu, mặc lấy lối sống của Ngài sẽ được cứu độ (Ga 14, 6). Trong tương lai, các nhà thần học nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm cá nhân trong những quyết định luân lý, công đồng cho người ta sống theo lương tâm. Trong nền văn hóa ít tiên tiến, bí tích Hòa Giải truyền thống vẫn còn thích hợp, các hình thức Hòa Giải truyền thống nói lên lòng nhân hậu, sự tha thứ, đến việc hoán cải, ăn năn[13].

Nhận xét

Qua phần trình bày trên đây, có thể nhận thấy bí tích Hòa Giải đã trải qua những biến đổi quan trọng về nhận thức và cách thức cử hành. Trước hết, bí tích Hòa Giải là một phương thế để canh tân đời sống mặt thiêng liêng, Hoà Giải để được sống trong lòng Giáo Hội. Trong Kinh Thánh, bí tích Hòa Giải biểu hiện qua lòng nhân từ của Thiên Chúa”. Vào thời các Giáo phụ chỉ có đền tội công khai”, không có sám hối. Đến thời Trung Cổ thì nhấn mạnh tới “xưng tội” như cuộc gặp gỡ riêng tư giữa linh mục với hối nhân. Từ sau Công Đồng Trentô tới nay, nhấn mạnh tới “lời xá giải” như một cuộc trao đổi pháp lý giữa hối nhân và linh mục. Người ta tin rằng chỉ cần với chút ít sám hối, cộng với lời xá giải của linh mục, họ sẽ được tha tội, cả những tội trọng[14]. Hòa Giải không phải là một hành vi chỉ được phép làm một lần trong đời, nhưng là một tiến trình kéo dài suốt đời[15]. Dưới sự hướng dẫn của công đồng Vatican II, bí tích Hòa Giải đang trên đường đi tìm một cách diễn tả gần gũi hơn với nhận thức của con người hôm nay.

Tóm lại, bí tích Hòa Giải là nhịp cầu Lòng Thương xót của Thiên Chúa. Ngang qua đó, ta được giao hòa với Thiên Chúa, với Hội Thánh, với chính mình, tái tạo sự hiệp thông huynh đệ, được hưởng mọi gia sản thiêng liêng của một chi thể sống động của Thân Thể Chúa Kitô[16]. Các nhà thần học nhấn tới việc tái hoán cải và hòa giải. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu chính là bí tích hằng sống để chữa lành cho những ai biết Ngài, cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là một dấu chỉ sống động của ơn tha thứ tội lỗi, của tình yêu thương huynh đệ, việc đích thân quan tâm đến lợi ích của tha nhân[17]. Như Đức Giêsu đã loan báo sứ điệp hòa giải bằng chính cuộc sống của Ngài, mỗi người được mời gọi dùng chính cuộc sống của mình để loan báo ơn hòa giải ấy cho con người hôm nay. Chứng tá của cuộc sống sẽ là dấu chỉ mạnh mẽ nhất của ơn cứu độ Thiên Chúa: “Con hãy về bình an. Lòng tin của con đã cứu con.” (Lc 7, 50).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.     HĐGMVN - Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin - Ban Từ vựng Công giáo. Từ Điển Công Giáo. Hà Nội: Tôn Giáo, 2019.

2.     Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin. Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.

3.     Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót. 11.4.2015.

4.     Công Đồng Vatican II. Hiến chế Lumen Gentium. 21-11-1964.

5.     Đaminh Nguyễn Đức Thông. Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu. CSsR, 2021.

6.     Joseph Martos. Cửa Vào Thánh Thiêng. Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch. Hà Nội: Tôn Giáo, 2015.

7.     William J.Bausch. Một Lối Nhìn mới về Bí tích. Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch. Phương Đông, 2009.

8.     Shopp. John B. et al. The HarperCollins Encyclopedia of Catholicism. Harper CollinsPublishers Inc, 1995. Osborne. Kenan.

 

 



[1] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch, Nxb Tôn Giáo, 2015, 307.

[2] HĐGMVN - Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin - Ban Từ vựng Công giáo, Từ Điển Công Giáo, Hà Nội: Tôn Giáo, 2019, 400.

[3] Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, Hà Nội: Tôn Giáo, 2012, số 1423, 1424.

[4] Đaminh Nguyễn Đức Thông, Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu, 2021, 8.

[5] Đaminh Nguyễn Đức Thông, Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu, 9.

[6] Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 1447.

[7] Shopp, John B, et al., The HarperCollins Encyclopedia of Catholicism, Harper CollinsPublishers Inc, 1995. Osborne, Kenan, item Reconciliation.

[8] x. ĐGH Phanxicô, Tông sắc “Dung Mạo Lòng Thương Xót”, 2015, số 6.

[9] Đaminh Nguyễn Đức Thông, Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu,15-16.

[10] Đaminh Nguyễn Đức Thông, Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu, 20.

[11] Đaminh Nguyễn Đức Thông, Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu, 26.

[12] Đaminh Nguyễn Đức Thông, Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu, 2021, 36-37.

[13] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch, Nxb Tôn Giáo, 2015, 361.

[14] William J.Bausch, Một Lối Nhìn mới về Bí tích, Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch, Nxb Phương Đông, 2009, 268.

[15] William J.Bausch, Một Lối Nhìn mới về Bí tích, Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch, 274.

[16] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, 1964, số 48-50.

[17] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, Đaminh Nguyễn Đức Thông dịch, 362. 

Bí tích Hòa giải

Labels:
Thư viện Học viện Công giáo Việt Nam