Phêrô Maria Nguyễn Thái Công STL-K8


MỤC LỤC

DẪN NHẬP. 1

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA MẠC KHẢI 3

1. Mạc khải Cựu Ước về con người là hình ảnh của Thiên Chúa. 3

2. Mạc khải Tân Ước về con người là hình ảnh của Thiên Chúa. 6

2.1. Hình ảnh Thiên Chúa được phản ánh trung thực nơi Chúa Giêsu Kitô. 6

2.2. Người tin sống và gìn giữ hình ảnh Thiên Chúa nơi mình. 8

2.3. Hình ảnh Thiên Chúa trong viễn tượng cánh chung. 13

CHƯƠNG II: TRUYỀN THỐNG SUY TƯ THẦN HỌC VỀ CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA. 16

1. Suy tư của các Giáo Phụ về “hình ảnh Thiên Chúa”. 16

2. Suy tư của các thần học gia Kinh viện về “hình ảnh Thiên Chúa”. 22

3. Suy tư của các thần học gia Cận-hiện đại về “hình ảnh Thiên Chúa”. 23

CHƯƠNG III: NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA THỜI ĐẠI HÔM NAY VÀ GIÁO HUẤN  CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II VỀ “HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA” NƠI CON NGƯỜI 28

1. “Hình ảnh Thiên Chúa” trước những thách đố của thời đại ngày nay. 28

1.1. Một thời đại con người đang lấy mình làm trung tâm.. 28

1.2. Một thời đại công kỹ nghệ khoa học không có hy vọng. 31

2. Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II về “Hình ảnh Thiên Chúa”. 33

2.1. Con người trong tương quan với Thiên Chúa. 33

2.2. Những tài năng cao quý của con người 36

2.3. Con người lý tưởng trong Đức Kitô. 39

KẾT LUẬN.. 42

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 44


DẪN NHẬP

Trong nhãn giới đức tin Kitô giáo, “con người có một địa vị độc tôn trong công trình tạo dựng: con người là hình ảnh Thiên Chúa”[1]. Thật vậy, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo xác quyết: “Mỗi cá nhân con người, bởi vì được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên có phẩm giá của một ngôi vị: không chỉ là một sự vật nào đó, nhưng là một ai đó. Con người có khả năng nhận thức về bản thân mình, làm chủ mình, tự hiến mình cách tự do và đi vào sự hiệp thông với ngôi vị khác; nhờ ân sủng, mỗi người được kêu gọi vào Giao ước với Đấng Tạo Hoá của mình…”[2].

Phẩm giá con người, trong nhãn giới Kitô giáo, cao cả là vậy; ấy thế, có những lúc trong lịch sử nhân loại, con người chỉ được nhận biết là động vật bậc cao có lý tính và người ta chỉ dừng lại ở đời sống vật chất, nhân thế mà thôi. Đặc biệt, thời đại ngày nay, một thời đại như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã từng nhận xét là thời đại công kỹ nghệ khoa học không có hy vọng, người ta chú trọng đến những tiện nghi vật chất và hưởng thụ mà nhiều khi lãng quên chiều kích thánh thiêng của mình vốn là hình ảnh Thiên Chúa và được dựng nên để hướng về Thiên Chúa, hướng về tương quan hiệp thông sự sống thần linh với Thiên Chúa.[3]

Luận văn này nhấn mạnh đến hình ảnh Thiên Chúa nơi con người dựa trên nền tảng Mạc Khải và giáo lý đức tin Kitô giáo; theo đó, người viết muốn tìm về căn cốt đích thực phẩm giá con người để chính bản thân cố gắng sống xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi, đồng thời cũng gợi nhắc cho người khác về phẩm vị cao cả của họ trước những thách đố của thời đại hôm nay, một thời đại chú trọng nhiều đến chiều kích xác thể, vật chất trần gian mà dễ làm méo mó hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.  

Về phương pháp, người viết sẽ diễn giải, phân tích và nhận định những dữ kiện Kinh Thánh và Truyền thống các Giáo Phụ, các nhà thần học và Huấn quyền để làm sáng tỏ hình ảnh Thiên Chúa nơi con người là gì, qua đó nhấn mạnh địa vị cao cả của họ trong thế giới.

Về bố cục tổng thể, luận văn gồm có những chương chính sau đây:

Chương I: Con người - Hình ảnh của Thiên Chúa dưới ánh sáng của mạc khải;

Chương II: Truyền thống suy tư thần học về con người - Hình ảnh của Thiên Chúa;

Chương III: Những thách đố của thời đại ngày nay và giáo huấn của Công đồng Vaticanô II về “Hình ảnh Thiên Chúa” nơi con người.

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA MẠC KHẢI

Trước hết, có thể nói, chúng ta không thể biết đầy đủ mầu nhiệm con người, nếu chúng ta không tìm về Mạc Khải của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn chia sẻ tình yêu của Ngài qua việc tạo dựng các thụ tạo, nhất là qua việc sáng tạo con người. Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài và ban cho họ sự sống của Ngài. Con người chính là đỉnh cao trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thánh nữ tiến sĩ Catarina Siêna đã từng thốt lên: “Chính tình yêu khôn tả đã khiến Chúa nhìn đến thụ tạo của Chúa nơi chính Chúa, Chúa đã say mê [con người]; vì tình yêu Chúa đã dựng nên nó, vì tình yêu Chúa đã cho nó hiện hữu để nó nếm được sự tốt lành vĩnh cửu của Chúa”[4]. 

Vậy Chúa nhìn đến thụ tạo của Chúa nơi chính Chúa nghĩa là gì? Nói cách khác, việc Chúa tạo dựng con người giống hình của Ngài nghĩa là gì?

1. Mạc khải Cựu Ước về con người là hình ảnh của Thiên Chúa

Có hai trình thuật nổi bật trong Kinh Thánh Cựu Ước mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng con người. Trong trình thuật thứ nhất, bằng Lời quyền năng, Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Đây là kết quả của một quyết định chưa từng có của Thiên Chúa đối với các thụ tạo. Sách Sáng thế thuật lại rằng Thiên Chúa tạo dựng người nam, người nữ theo hình ảnh của Ngài và ban cho họ quyền cai quản vạn vật:

Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất (St 1, 26-28).

Thông điệp căn bản ở đây chính là con người là thụ tạo ưu tuyển của Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người với các thụ tạo hữu hình khác: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Ngài sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1, 27). Thiên Chúa đặt con người vào trung tâm và chóp đỉnh của trật tự sáng tạo. Con người theo tiếng Hipri là “adam” được tạo dựng từ bụi đất –  “adamah”[5] và Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào mũi Adam (x. St 2, 7). Tuy thân xác con người chỉ là bụi đất, nhưng bụi đất này lại có “hơi thở” của chính Thiên Chúa và có tương quan đặc biệt với Thiên Chúa. Bởi đó, Mathews A. Kenneth, một học giả Kinh Thánh, đã nhắc lại giáo lý đức tin chính thống của Giáo Hội về hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người:

Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá của một ngôi vị, không phải chỉ là một cái gì đó mà là một ai đó. Con người có khả năng biết mình, làm chủ mình, tự do hiến mình và tự nguyện hiệp thông với người khác. Hơn thế nữa, con người được ơn Chúa mời gọi ký kết giao ước với Đấng Tạo Hoá của mình, lấy đức tin và tình yêu đáp trả Ngài, một sự đáp trả mà không thụ tạo nào có thể làm thay con người.[6]

Dựa vào những yếu tố văn hoá của vùng Lưỡng Hà Địa, một số nhà chú giải Kinh Thánh khác đã giải thích rằng lối nói “hình ảnh Thiên Chúa” được hiểu như là đại diện của Thiên Chúa. Lối nói này được áp dụng cho nhà vua, là kẻ ‘thay trời trị dân’, hành động nhân danh Thiên Chúa. Vì thế, khi đưa lối nói này vào trong tác phẩm của mình, các thánh ký muốn khẳng định rằng mọi người đều bình đẳng, vì mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, nhà vua cũng như bao người khác đều là thụ tạo trong các thụ tạo của Thiên Chúa.[7]

G. Von Rad thêm rằng “chủ quyền cai quản thế giới” là nguyên do chủ yếu khiến con người nhận được tư cách “hình ảnh của Thiên Chúa”[8]. Chính theo nghĩa này, con người được xem như là đại diện của Thiên Chúa. Một số nhà chú giải khác thì nhấn mạnh: “Con người là hình ảnh của Thiên Chúa khi con người có mối tương quan với Thiên Chúa”[9].

Như vậy, tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa với con người làm nên giá trị ưu việt của con người trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Nói cách khác, mỗi con người đã được dựng nên để hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Vị thế hình ảnh Thiên Chúa nơi con người hệ tại chính ở mối tương quan đặc biệt này.[10]

Trình thuật thứ hai mô tả Thiên Chúa như người thợ gốm nặn nên con người bằng đất sét, rồi thổi sinh khí vào đó. Việc con người được nặn nên từ đất sét –  biểu hiện yếu tố vật chất nơi con người – nói lên sự mỏng giòn, yếu đuối của họ, nhưng cũng nói lên sự gần gũi của con người với các loài thụ tạo hữu hình mà Thiên Chúa cũng đã dựng nên. Nét đặc biệt nơi con người đó là nó được Thiên Chúa hà hơi vào lỗ mũi nó. Hơi thở là biểu hiện của yếu tố thần linh; qua đó, con người gần gũi với Thiên Chúa hơn các sinh vật khác và con người có sự sống hướng về Thiên Chúa: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2, 7).

Nhờ quyền năng Thiên Chúa, con người được hiện diện trên trần gian này. Sinh khí của Thiên Chúa “Ζωτικότητα[11] nghĩa là gió, hơi thở được xem là thực tại tinh túy nhất của con người. Nhiều khi sinh khí cũng được hiểu như là linh hồn hay thần khí “ψυχή[12] của con người. Nói cách khác, dưới nhãn quan Cựu Ước, sinh khí, thần khí hay linh hồn là nền tảng của sự sống, giúp con người hiện diện và trưởng thành (Is 32, 15-17; Is 44, 3). Sinh khí luôn vận động để đem lại sự sống cho con người, trong khi đó máu của con người được xem là phương tiện vận chuyển sinh khí khắp cơ thể. Dưới nhãn quan của Cựu Ước, “linh hồn và thân xác nên một, không thể chia cắt”[13].

Tóm lại, với Kinh Thánh Cựu Ước, lối nói “con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa” diễn tả vị thế ưu việt của con người trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thật vậy, con người có một phẩm giá riêng biệt, cao cả hơn mọi loài thụ tạo hữu hình khác, vì ơn gọi của họ là sống Giao Ước với Thiên Chúa. Nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa có nghĩa là nhân tính là đại diện hữu hình của Thiên Chúa vô hình. Ngoài ra, Kinh Thánh Cựu Ước còn nhấn mạnh rằng nơi thân xác con người được nắn nên từ đất sét có hơi thở thần linh của Thiên Chúa. “Con người trong cái tổng thể của nó là hình ảnh của Thiên Chúa, không phân biệt tinh thần và thể xác. Toàn thể nhân loại, không loại trừ bất kỳ ai, đều là hình ảnh của Thiên Chúa.”[14] Con người có phẩm vị cao quý giữa các thụ tạo hữu hình Thiên Chúa dựng nên nhờ bởi họ là hình ảnh của Thiên Chúa và có hơi thở thần linh của Ngài nơi họ.

Cho dẫu mạc khải Cựu Ước đã gợi mở giá trị ưu việt của con người trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa khi nói rằng con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chỉ được làm sáng tỏ cách trọn vẹn trong mạc khải Tân Ước qua khuôn mặt Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập thể.

2. Mạc khải Tân Ước về con người là hình ảnh của Thiên Chúa

Mầu nhiệm con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa không chỉ được gợi nhắc trong Cựu Ước, mà mầu nhiệm đó còn được biểu lộ cách tỏ tường trong Tân Ước.

2.1. Hình ảnh Thiên Chúa được phản ánh trung thực nơi Chúa Giêsu Kitô

Trước hết, hình ảnh Thiên Chúa được phản ánh cách trung thực nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa vô hình ở giữa chúng ta. Ngài là Ađam mới, cũng là Ađam cuối cùng. Trong các thư của mình, thánh Phaolô thường xác quyết với các tín hữu rằng Chúa Giêsu chính là Đấng đến để hoàn thiện hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài ‘giống như Thiên Chúa’ và chiếu toả hình ảnh ánh quang của Thiên Chúa vốn bị che giấu đối với những người không tin, nhưng những người tin vào Thiên Chúa lại được nhìn thấy hình ảnh vinh quang của Thiên Chúa nơi dung nhan của Đức Kitô’ (2 Cr 4, 4-6). Ngài là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15); Ngài cũng là Con Đầu lòng của mọi loài thọ tạo, tức là hình ảnh của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là “Con Một yêu dấu” (Cl 1, 13) và là Đấng được trao quyền trên mọi tạo vật.

Với tư cách là Ađam mới, Chúa Kitô là đầu của nhân loại mới. Như Ađam cũ đã chia sẻ hình ảnh với con cháu của mình, thì Đức Kitô cũng chia sẻ hình ảnh đó với con cháu của Ngài, tức là những người ở trong Ngài: “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8, 29).

Đặc biệt, trong 1Cr 15, 46-49, thánh Phaolô đề cập trực tiếp đến hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người trong mối liên hệ với Đức Kitô, vị Adam mới:

Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó. Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến. (1Cr 15, 46-49)

Trong đoạn thánh thư nêu trên, thánh Phaolô đã đưa ra một quan điểm nhân học và đưa ra sự khác biệt giữa “con người đầu tiên” Adam cũ và “con người thứ hai” là Adam mới là Chúa Kitô, dựa trên Sách Sáng Thế chương II. Mark Taylor nhận xét rằng việc sử dụng kiểu chữ Adam-Kitô bắt nguồn từ (1Cr 15, 21-22) và việc Ađam cũ là người đại diện cho tạo vật cũ, dẫn đến cái chết, thì Chúa Kitô là người đại diện cho tạo vật mới, nhờ Ngài mà con người được sống lại.[15] Trong nhân học của thánh Phaolô, điều trở nên rõ ràng là con người đã mang hình ảnh của con người trần thế và chỉ sau khi sống lại, nhân loại mới hoàn toàn mang hình ảnh của Con Người trên trời. Sự so sánh giữa Ađam và Đấng Kitô tiếp tục trong 1Cr 15, 47-49 với một sự thay đổi nhỏ trong thuật ngữ “Ađam thứ nhất với Ađam cuối cùng” thành “người thứ nhất với người thứ hai” và “người đến từ đất - người đến từ trời”.

Như vậy, dựa trên xác tín của thánh Phaolô, chúng ta biết rằng trong Đức Kitô và được nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhân loại có được hình ảnh Thiên Chúa trung thực nhất nơi mình. Tuy nhiên, với ân huệ cao quý này, người ta được mời gọi phải sống và gìn giữ hình ảnh ấy cách triệt để và toàn vẹn trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.

2.2. Người tin sống và gìn giữ hình ảnh Thiên Chúa nơi mình

Như đã được trình bày ở trên, trọng tâm con người là hình ảnh của Thiên Chúa trong Tân Ước nằm trong tương quan hình ảnh Chúa Kitô, hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Tân Ước không chỉ nói về hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người, mà các tác giả Tân Ước còn nhấn mạnh đến việc phải sống và gìn giữ hình ảnh ấy như thế nào.

Tin Mừng thánh Matthêu chương XII đã đề cập đến một số cuộc tranh luận giữa Đức Chúa Giêsu và những người Pharisêu liên quan đến “hình ảnh” của Thiên Chúa:

Xin Thầy cho biết ý kiến: ‘có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?’ Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: ‘Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!’ Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: ‘Hình và danh hiệu này là của ai đây?’  Họ đáp: ‘của Xê-da’. Bấy giờ, Người bảo họ: ‘Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa (Mt 22, 20-21).

Nguyên ngữ ‘εικόνα’ trong tiếng Hy Lạp có thể được dịch theo nghĩa hẹp là “hình ảnh”, tương đương với từ “zelem”[16] trong tiếng Do Thái được đề cập trong St 1, 26-27, có nghĩa là một vật thể có hình dạng giống với hình hoặc bề ngoài của một vật thể khác.[17] Sau khi hỏi những người Pharisêu về “hình ảnh” (εικόνα) có trên đồng tiền Denarius, Chúa Giêsu khuyên họ “hãy trả cho Caesar những gì của Caesar và những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21). Một số nhà chú giải coi đoạn văn này như một sự ám chỉ rõ ràng về việc con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Việc liên tưởng đến hình ảnh của Caesar kéo theo nghĩa vụ đối với Caesar; do đó, việc liên kết với hình ảnh của Thiên Chúa cũng phải kéo theo một nghĩa vụ đối với Thiên Chúa.[18] Chẳng hạn, nhà thần học John Nolland gợi ý rằng Caesar có quyền đối với số tiền thuế được đóng dấu hình ảnh và dòng chữ của ông trên đồng tiền Denarius, thì Thiên Chúa cũng có quyền đóng dấu “hình ảnh” và dòng chữ của Ngài trên tất cả mọi người.[19] Chúa Giêsu tạo nên một sự tương phản tinh tế nhưng mạnh mẽ. Do hình ảnh của Caesar được in ở trên đồng xu, nên ông có thể đòi tiền thông qua việc đánh thuế; cũng thế, Đức Chúa đã đóng dấu hình ảnh của mình trên từng con người được sinh ra trên đời này, nên Ngài có quyền đưa ra yêu sách đối với từng người mang hình ảnh của Ngài. Chính những dòng chữ như vậy mà Thiên Chúa đã in dấu hình ảnh của Ngài vào nhân loại bằng một một điều hết sức ấn tượng không phải do búa, đục hay khuôn mẫu, mà là do sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài. Giống như Caesar yêu cầu hình ảnh của ông phải được in trên mỗi đồng xu, Thiên Chúa cũng in dấu hình ảnh của Ngài trên từng con người.

Ở chỗ khác trong Tin mừng thánh Matthêu (Mt 19, 2-6), Chúa Giêsu khẳng định người nam và người nữ là hình ảnh của Thiên Chúa. Trước câu hỏi của người Pharisêu về việc ly dị, Chúa Giêsu đã nhắc đến việc Thiên Chúa tạo dựng nên người nam và người nữ đều là hình ảnh của Thiên Chúa: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19, 2-6). Chúa Giêsu từ chối làm theo luật Môsê cho phép ly dị và hướng người Pharisêu trở về nguồn gốc trung thành của hôn nhân lúc khởi đầu chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể tạo dựng ra loài người theo nhiều cách khác nhau, nhưng Ngài đã không làm vậy, Ngài đã tạo dựng nên người nam và nữ (St 1, 27).[20] Thánh John Chrysostom nhận xét rằng, Chúa Giêsu đưa ra một lập luận mạnh mẽ không chỉ từ góc độ tạo dựng mà còn từ góc độ cứu chuộc. Trong quá trình tạo dựng Ađam và Eva, Đức Chúa chỉ tạo ra một người nam và một người nữ, đây là ý muốn của Ngài; nếu không thì Ngài đã tạo dựng nhiều phụ nữ. Hơn nữa, Thiên Chúa cũng truyền lệnh một người nam phải kết hợp với một người nữ. Việc sinh sản của vợ chồng là nghĩa vụ thiêng liêng và chỉ được thi hành trong mối quan hệ một vợ một chồng. Do đó, có thể kết luận rằng Chúa Giêsu coi Sách Sáng Thế là nguồn gốc đích thực của công trình sáng tạo và là nền tảng vững chắc cho kế hoạch của Thiên Chúa dành cho người nam và người nữ. Khi tuân theo quy định của Thiên Chúa ngay từ lúc khởi đầu của chương trình sáng tạo con người, con người phản ánh đúng nhất hình ảnh của Chúa trên thế gian.

Không chỉ Tin Mừng Matthêu gợi nhắc những việc thực hành cụ thể để biểu lộ hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, mà thư của thánh Giacôbê Tông đồ còn nhấn mạnh đến ơn thánh Chúa, nhờ đó người ta cần đón nhận để sống xứng đáng với tư cách của những người mang hình ảnh Thiên Chúa. Thật vậy, Thư Gc 3, 8-12 cách nào đó đề cập đến con người là hình ảnh thánh thiêng của Thiên Chúa. Đoạn thư này có mối liên hệ rõ ràng với St 1, 26. Bất chấp có sự sa ngã của con người từ hành vi bên trong cũng như bên ngoài (St 6, 5), Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm cho sự sống con người trở nên thiêng liêng và có giá trị hơn nhiều so với bất kỳ loài vật nào (St 9, 5-6; Gc 3, 9):

Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người. Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được. Chẳng lẽ một mạch nước lại có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua sao? Thưa anh em, làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ôliu, hoặc cây nho sinh trái vả? Nước mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt (Gc 3, 9).

Ở đây, thánh Giacôbê nói về sự khó khăn trong việc thuần hóa cái lưỡi, từ đó nhìn nhận cái lưỡi là một ‘kẻ ác không ngừng nghỉ’, cái lưỡi vừa nguyền rủa vừa chúc phúc những người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa. Mặc dù đoạn văn này không nói rõ ràng về con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nhưng thánh Giacôbê khẳng định con người chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Bất chấp có sự sa ngã của con người gây nên đau khổ, mọi sự sống của con người đều thiêng liêng. Quả vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người “theo hình ảnh Ngài” (St 1, 27); vì lý do này, nếu ai dám “nguyền rủa con người là cũng nguyền rủa Thiên Chúa”.[21] Hình ảnh Thiên Chúa có thể bị méo mó do tội lỗi nhưng hình ảnh đó không bao giờ có thể bị xoá nhoà nơi con người.

Cũng đề cập đến việc thực hành đức tin trong tư cách của những người mang lấy hình ảnh Thiên Chúa nơi mình, thánh Phaolô đã căn dặn những người tin rằng: “Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu” (Cl 3, 9-10). Nguyên ngữ ‘hình ảnh Đấng Tạo Hoá’ mà thánh Phaolô sử dụng có liên hệ đến đoạn (St 1, 26-27). Thánh Phaolô cho rằng quá trình biến đổi thành “hình ảnh - εικόνα” của Đức Kitô được thực hiện thông qua việc cởi bỏ con người cũ, cởi bỏ con người tội lỗi. Con người cũ hoàn toàn khác với con người mới; nhân loại được đổi mới trong Chúa Kitô. Tất cả những người có bản chất ‘mới’ này có thể được gọi chung là con người mới.[22] John F. Kilner chỉ ra rằng “đặc điểm nổi bật của nhân loại mới đó là quyền lực của tội lỗi đã bị phá vỡ trong Đức Kitô.”[23] Thánh Phaolô nhắc nhở các kitô hữu ý thức về những điều có thể ngăn cản họ trở thành con người mà Thiên Chúa đã dự định cho họ khi sáng tạo. Ngài nhấn mạnh rằng họ phải trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Tất cả điều đó được thực hiện nhờ Chúa Kitô. Nói cách khác, công việc của Chúa Kitô thay thế quyền lực của tội lỗi và cho phép nhân loại được biến đổi thành hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa.

Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô còn nhấn mạnh: “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4, 22-24). Diễn giải đoạn thư này, John F. Kilner đã nhận định rằng: “Như trong thư Côlôsê, thánh Phaolô đối chiếu hình ảnh mới với hình ảnh con người cũ “hư nát và những ham muốn lừa dối”. Thiên Chúa đã quyết định thiết lập hình ảnh của Ngài trong con người ngay từ thủa đời đời và ý định ấy đã được hoàn thành trong Đức Giêsu Kitô. Cả hai đoạn văn ở Êphêsô và Côlôsê đều diễn tả hình ảnh sự Cứu Chuộc của Chúa Giêsu làm cho con người giống hình ảnh Thiên Chúa hơn, chính xác hơn, giống Đức Kitô hơn”[24].

Cũng diễn giải tư tưởng nêu trên của thánh Phaolô, Harold Hoehner nhấn mạnh rằng hình ảnh thánh thiêng trong nhân loại mới thay thế cho nhân loại cũ đã bị lột bỏ; Đức Kitô là nguyên mẫu của nhân loại mới, là nguồn gốc của sự công chính và thánh thiện.[25] Ông cũng thêm rằng: “Con người mới được xác định là con người có sự công chính và thánh thiện. Con người mới hoàn toàn khác với con người cũ, vì con người cũ với những ham muốn và lối sống của họ bắt nguồn từ sự lừa dối.”[26] Con người mới là tạo vật giống hình ảnh của Thiên Chúa, những người tin Chúa phải sống trong sự công chính như Ngài là Đấng công chính và thánh thiện.

Không chỉ thánh Phaolô đề cập đến con người mới trong Đức Kitô, mà tác giả thư gửi tín hữu Hipri cũng có cùng một xác quyết này. Thật vậy, tác giả viết: “Người [Đức Kitô] là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (Dt 1, 3). Ở đây tác giả trình trình bày khái niệm về hình ảnh của con người giống Thiên Chúa qua sự cứu chuộc của Đức Giêsu. Nhờ ơn cứu chuộc này mà người ta được tẩy trừ tội lỗi và được trở nên giống hình ảnh Đức Giêsu, Đấng là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Michael Heiser nhận xét tác giả sách Hebrews sử dụng lối diễn đạt chính xác khi gọi Chúa Giêsu là “hình ảnh trung thực (χαρακτήρ) của Thiên Chúa”[27].

2.3. Hình ảnh Thiên Chúa trong viễn tượng cánh chung

Tân Ước không chỉ nêu lên những thực hành đức tin cụ thể trong hiện tại liên quan hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, mà một số các tác giả Tân Ước còn đề cập đến hình ảnh Thiên Chúa trong mầu nhiệm cánh chung.

Chẳng hạn, trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan viết: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1Ga 3, 2). Đoạn trích này liên quan đến hình ảnh con người được tái tạo giống hình ảnh Thiên Chúa khi Ngài được mặc khải cho chúng ta. Ý tưởng ấy cũng dựa trên ý tưởng của (St 1, 26). I. Howard Marshall đã khám phá rằng, tác dụng của việc “nhìn thấy Chúa Giêsu là làm cho chúng ta giống Ngài”, giống như một tấm gương phản chiếu hình ảnh của người đứng trước nó.[28]

Cũng nêu lên hình ảnh Thiên Chúa nơi con người trong viễn tượng cánh chung, thánh Phaolô bảo rằng: “Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1Cr 15, 49). Nhờ Chúa Thánh Thần mà con người hoàn toàn trở nên hình ảnh của Thiên Chúa: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3, 18).

Dẫu hình ảnh Thiên Chúa nơi con người sẽ được hoàn tất trong ngày cánh chung, nhưng các tác giả Tân Ước luôn nhắc đến khía cạnh hiện sinh về mầu nhiệm cánh chung này. Chẳng hạn, thánh Gioan lưu ý: “Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1Ga 3, 3).

Riêng với thánh Phaolô, ngài đi xa hơn nữa khi nhắc nhở các Kitô hữu: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. Vậy không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3, 10-11; Gl 3, 28).  Quả thật, nhân loại là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất. Trong một ý nghĩa xa hơn, Chúa Kitô là đại diện ‘duy nhất’ của Thiên Chúa trên trái đất và cộng đồng các tín hữu trở thành nơi cư trú của Thiên Chúa trên mặt đất này. Giống như sự sáng tạo nên loài người là hình ảnh của Thiên Chúa nói lên sự bình đẳng của tất cả mọi người trước Thiên Chúa, thì cũng vậy trong cộng đồng nhân loại mới không thể có sự phân chia về chủng tộc hay giai cấp. Có thể nói, chương đầu của Sách Sáng Thế trình bày toàn thể nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa, thì nơi Thánh Phaolô, Chúa Kitô là hình ảnh đích thực duy nhất và nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa xét theo mức độ giống Chúa Kitô. Đối với ngài, đây là cách mà nhân loại, vốn đã là hình ảnh của Thiên Chúa, có thể trở thành con người trọn vẹn, mang hình ảnh của Thiên Chúa.

Tóm lại, Kinh thánh Tân Ước trình bày ý tưởng về con người là hình ảnh Thiên Chúa qua chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã Nhập thể và trở thành hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa trong thân phận con người. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Quan niệm về “hình ảnh Thiên Chúa” tuy được hiểu khác nhau trong Tân Ước nhưng đều quy về một điểm duy nhất con người chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa được Thánh Phaolô và nhiều tác giả Tân Ước giải thích rất sâu sắc trong (St 1, 26-28). Thánh Phaolô xác định Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa (Cl 1,15; 2 Cr 4,4). Tuy nhiên, Đức Kitô vượt xa Ađam cũ và toàn thể nhân loại trong vinh quang, vì Ngài là hình ảnh vĩnh cửu và hoàn mỹ của Thiên Chúa và là Đấng Tạo hóa của muôn loài muôn vật. Trong Đức Kitô, với Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, các tín hữu được mặc lấy con người mới và phải sống tư cách của con người mới trong hiện tại để đạt tới sự viên mãn của mình trong ngày cánh chung.

CHƯƠNG II: TRUYỀN THỐNG SUY TƯ THẦN HỌC VỀ CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

Ngay từ thời kỳ đầu của truyền thống Kitô giáo, các Giáo Phụ là những người đầu tiên có nhiều suy tư về chủ đề ‘con người là hình ảnh của Thiên Chúa’. Các Giáo Phụ cũng dựa vào Mạc khải Kinh Thánh để khám phá ý nghĩa sâu xa của chủ đề này. Không những vậy, qua các giai đoạn lịch sử từ thời Kinh viện cho đến nay, truyền thống suy tư thần học Kitô giáo cũng vẫn không ngừng đào sâu chủ đề này. Cách tiếp cận và quan điểm của mỗi thời kỳ và của mỗi tác giả có có khi khác biệt nhau, nhưng điều đó cho thấy sự phong phú và đa dạng trong suy tư thần học về chủ đề này. Dưới đây, người viết lần lượt tìm hiểu truyền thống suy tư thần học về “hình ảnh Thiên Chúa” qua các giai đoạn khác nhau.

1. Suy tư của các Giáo Phụ về “hình ảnh Thiên Chúa”

Trước tiên, người viết đề cập tư tưởng của thánh Clêmentê thành Alexandria. Giáo Phụ này khẳng định:“Con người không phải là hình ảnh, nhưng được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Hình ảnh ở đây chính là Logos vĩnh cửu, Ngôi Lời tiền hữu của Thiên Chúa”.[29] Ở đây, thánh Clêmentê nhấn mạnh đến Ngôi Lời – hình ảnh thật của Thiên Chúa mà con người được mang lấy. Thánh Giáo Phụ này còn nhận định rằng con người nhờ khả năng trí tuệ mà có khả năng suy tư và thông dự vào lý tính thần linh của Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa thể hiện ở phần tinh hoa nhất của con người, tức là linh hồn - trí năng - tinh thần. Do đó, linh hồn cao trọng hơn thân xác, mặc dù thân xác không phải là điều xấu và cùng với muôn loài thụ tạo khác thân xác được tạo dựng với ý định tốt lành. Thánh Giáo Phụ lập luận:

Hình ảnh của Thiên Chúa chính là Ngôi Lời Thiên Chúa và hình ảnh của Ngôi Lời được phản ánh nơi con người, đặc biệt qua khả năng lý trí. Sở dĩ người ta nói con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống với Thiên Chúa là cũng vì lẽ đó; nghĩa là, nhờ trí năng của linh hồn mà con người trở nên giống Lý Tính tối thượng của Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời; và nhờ đó, con người trở thành hữu thể biết lý luận.[30]

Thánh Clêmentê còn khẳng định thêm rằng con người thần thiêng hiện hữu trong hình dạng con người hạ giới (St 2,7) và phải cố gắng tự giải thoát bằng việc chế ngự các giới hạn của cuộc sống trần gian để đạt đến mức “giống như” Thiên Chúa. “Hình ảnh Thiên Chúa” và sự “giống như Thiên Chúa” đã được thấy nơi hình ảnh của Đức Kitô; do đó, Ngài là khuôn mẫu và thầy dạy của các Kitô hữu, hướng dẫn họ trên con đường phải đi để tìm lại sự “giống như” Ngài.

Giáo Phụ Origen cùng đồng quan điểm với thánh Clêmentê khi ông đọc thấy trong đoạn Sách Thế mô tả “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27). Theo Origen, chỉ Đấng Cứu Thế mới xứng là hình ảnh trọn vẹn nhất, còn con người thì được dựng nên theo hình ảnh đó. Nhãn quan của Origen rất năng động. Thật vậy, ông nhấn mạnh rằng con người phải đi từ “hình ảnh” tới sự “giống như”; “giống như” đồng nghĩa với việc họ được cứu độ, còn “hình ảnh” là dấu chứng của lời mời gọi đó. Giáo Phụ này diễn giải:

Cũng như kẻ thấy hình ảnh của một ai đó thì cũng thấy cái mà nó là hình ảnh; nhờ Ngôi Lời Thiên Chúa vốn là hình ảnh Thiên Chúa, kẻ ấy thấy được Thiên Chúa. Như vậy, “ai thấy Ta là thấy Cha Ta” quả là đúng. Chính là để giống như hình ảnh Thiên Chúa mà con người được dựng nên. Đấng Cứu Thế là hình ảnh Thiên Chúa, do động lòng trắc ẩn thương xót con người khi thấy họ, vốn được dựng nên giống như Người, lại khước từ hình ảnh của Người để mặc lấy hình ảnh ma quỷ; cho nên chính Người đã mặc lấy hình ảnh con người và đến với họ, như thánh Tông đồ đã xác nhận khi nói: “dù là Thiên Chúa Người đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mang lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân và sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến chết.[31]

Ngoài tư tưởng của thánh Clêmentê thành Alexandria và Giáo Phụ Origen, chúng ta còn bắt gặp những suy tư sâu sắc của thành thánh Athanasiô về “hình ảnh Thiên Chúa”. Thánh Athanasiô là người đã hăng say bảo vệ Công Đồng Nicêa, chống lại bè rối Ariô khi ngài khẳng định rằng: “Ngôi Lời là Thiên Chúa, đồng bản thể với Thiên Chúa Cha; vì thế, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa thì cũng được tạo tác dựa trên khuôn mẫu Ngôi Lời Nhập Thể, Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa Cha”.[32] Theo vị Giáo Phụ này, chính trong tư cách là hữu thể có lý trí mà con người được dựng nên theo hình ảnh của Ngôi Lời và chính Ngôi Lời Nhập Thể cho phép con người sau khi sa ngã tìm lại được tương quan đích thực giữa họ với Người và qua đó tìm lại được đặc tính “hình ảnh”.

Khác với tư tưởng thánh Athanasiô, thánh Grêgôriô Nyssa quả quyết: “Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người có sự tự do”[33]. Ngài giải thích rằng Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài thụ tạo do lòng nhân hậu của Người; Người trao ban cho con người mọi sự và chẳng hề giữ lại gì cho mình; Người ban cho con người sự tự do một cách trọn vẹn và nhưng không; trong mọi điều thiện hảo,‘tự do’ là món quà cao quý nhất; vì thế, con người giống hình ảnh Thiên Chúa nơi sự tự do. Thánh nhân lý giải:

Bởi lẽ, nếu Thiên Chúa là nguồn viên mãn của mọi điều thiện hảo và con người được dựng nên theo hình ảnh của Ngài, thì chính trong sự thiện hảo này mà hình ảnh ấy được mời gọi đạt đến sự trọn lành. Như vậy, nơi chúng ta, có đủ mọi điều tốt lành, cũng như đủ mọi nhân đức, sự khôn ngoan và tất cả những phẩm chất cao quý. Một trong những đặc ân cao quý nhất là tự do, tự do không bị ràng buộc và không khuất phục trước bất kỳ điều gì, nhưng con người có khả năng tự quyết định cách tự do. Thực vậy, nhân đức không thể tồn tai nếu khi thực hiện một cách miễn cưỡng hoặc ép buộc.[34]  

Giáo Phụ Taxianô thì suy diễn rằng con người với toàn thể thân xác và linh hồn là hình ảnh của Thiên Chúa. Ông đã giải thích điều ấy bằng một sự tách biệt con người là một hợp thể gồm một linh hồn và một thân xác. Ông quả quyết:

Chỉ mình con người mới là hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa và tôi gọi là “người” chứ không phải kẻ sống như loài vật; con người được dựng nên để hướng về Thiên Chúa. Linh hồn là nơi ở của thân xác và thân xác cũng là nơi chứa đựng linh hồn. Nếu như một hợp thể như thế trở nên đền thờ, thì Thiên Chúa muốn cư ngụ ở đó, bằng chính thần trí cao cả; nhưng nếu hợp thể này không trở nên đền thờ thì con người chỉ hơn con vật ở chỗ có tiếng nói và cũng giống y như chúng, chứ chẳng giống như Thiên Chúa.[35]

Một trong số các Giáo Phụ nổi bật nhất chúng ta cần nhắc đến đó là thánh Irênê thành Lyon. Thánh Irênê  khẳng định: “Nơi Ađam, chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa và do tội lỗi con người đã đánh mất cả hai, nhưng không mất đi mãi mãi, vì con người sẽ lấy lại được chúng nhờ Đức Kitô”[36]. Thánh nhân nhận ra rằng ơn gọi của con người là trở nên hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên theo mẫu thức là phải trở nên ‘cái họ là’, theo ơn gọi của họ. Lúc khởi đầu, hình ảnh chỉ là cái manh nha của sự hoàn hảo. Nhưng nhờ vào đời sống đạo đức và kết hợp với Thiên Chúa mà hình ảnh nơi con người được tăng triển.[37] Thánh nhân cũng phân biệt rõ giữa “hình ảnh” và “giống như”. “Hình ảnh” nói lên một sự thông dự về hữu thể, còn “giống như” ám chỉ tính cách luân lý. Con người tội lỗi vẫn là “hình ảnh” Thiên Chúa, nhưng không còn “giống” Thiên Chúa nữa. Tiến trình cứu độ và thánh hóa nhằm giúp cho con người được trở thành “giống” Thiên Chúa hơn.[38]

Đồng quan điểm với thánh Irênê, Giáo Phụ Tertulianô cũng tin rằng con người vẫn là hình ảnh Thiên Chúa dù sau khi họ đã phạm tội và hình ảnh ấy được phục hồi lại như trước nhờ vào Ân sủng của Chúa Thánh Thần. Ông viết: “Nhờ Ân sủng của Thánh Thần, những người vốn không quen sửa chữa những khuyết điểm trên thân thể mình, giờ đây đã được chữa lành cả về tinh thần. Tội lỗi cũng được xóa bỏ. Do đó, con người sẽ được phục hồi lại hình ảnh của Thiên Chúa.”[39] Ngoài ra, Giáo Phụ Tertulianô còn suy luận thêm rằng: ‘Ý chí tự do và việc làm chủ bản thân’, là hai khía cạnh làm cho con người giống hình ảnh của Thiên Chúa nhất: “Con người là hình ảnh và giống Thiên Chúa phải được hình thành với ý chí tự do và sự làm chủ bản thân”.[40]

Riêng với Tertulianô, Giáo Phụ này đưa ra một công thức diễn tả rất minh bạch về hình ảnh con người mà sau này Công Đồng Vaticanô II sẽ lấy lại trong (GS 22): “Vì vậy, bất cứ điều gì mà bụi đất đã diễn đạt thì đều hướng về Đức Kitô, Đấng sẽ đến”. Theo ông, bụi đất được mặc lấy hình ảnh Đức Kitô, Đấng phải đến trong thân phận xác phàm, Ngài không chỉ là công trình của Thiên Chúa, mà còn là bảo chứng cho lời hứa của Thiên Chúa; nhờ vậy, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nơi cả linh hồn lẫn thân xác.[41] Tertulianô còn thêm rằng: “Việc Ngôi Lời Nhập Thể không nhất thiết liên hệ đến tội Ađam. Ngôi Lời đến trần gian là để tỏ lộ cho thấy sự hoàn hảo của con người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa”[42].

Còn thánh Hippôlytô viết trong khảo luận chống lạc thuyết phái Ngộ Đạo đã khẳng định, con người được Thiên Chúa thần hoá trở nên “bất tử” và con người là “hình ảnh” của Thiên Chúa. Thánh nhân diễn giải: “Những đau khổ mà bạn chịu trong thân phận làm người, tất cả đều do Thiên Chúa gửi đến, vì bạn là con người; còn những gì thuộc về Thiên Chúa, thì Người đã hứa ban cho bạn khi bạn được thần hoá và trở nên bất tử. Ngay từ đầu, Người đã gọi con người là hình ảnh của Người và khi cho họ nên giống hình ảnh Người, Người tỏ lòng yêu quý bạn biết chừng nào.[43]

Khác với các Giáo Phụ khác, thánh Augustinô thì tin rằng “con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh chủ yếu nằm trong linh hồn, mà linh hồn lại có một cơ cấu tam phân: ký ức, lý trí và ý muốn.”[44] Ngài viết:

Bộ ba này không thể tách rời nhau, cũng như Ba Ngôi Thiên Chúa vậy. Ký ức là hình ảnh của Chúa Cha; lý trí là hình ảnh của Chúa Con - Ngôi Lời; ý muốn là hình ảnh của Chúa Thánh Thần, tức Tình yêu. Nếu ba khả năng tinh thần này luôn hòa nhập với nhau cùng trong một con người thì Ba Ngôi cũng đều bằng nhau, luôn ở trong nhau và liên kết với nhau trong cùng một bản tính duy nhất. Như thế, nếu Ba Ngôi là ký ức về mình, nhận thức về mình và yêu lấy mình thì linh hồn chính là hình ảnh của Ba Ngôi. Chính trong sự gắn bó mật thiết giữa ký ức về mình, nhận thức về mình và việc yêu lấy mình (tương tự như sự gắn bó của Ba Ngôi Thiên Chúa) mà con người là hình ảnh Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất. Linh hồn không phải là hình ảnh riêng của một Ngôi Vị nào, nhưng là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi.[45]

Tuy nhiên, cũng giống như luận điểm về hình ảnh của Tertulianô, Augustinô khẳng định rằng hình ảnh con người không mất đi, dù họ đang mang trong mình những khía cạnh tội lỗi. Hình ảnh ấy có thể bị phai mờ, không xuất hiện rõ ràng, hoặc nó có thể bị chìm trong bóng tối hay bị biến dạng… nhưng hình ảnh ấy vẫn rực rỡ, đẹp đẽ và luôn tồn tại.

Tóm lại, các Giáo Phụ có những suy tư và quan điểm phong phú về “con người là hình ảnh của Thiên Chúa”. Thánh Clêmentê thành Alexandria cho rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa qua Ngôi Lời Vĩnh Cửu và con người với lý trí có thể tham dự vào lý tính thần linh. Origen nhấn mạnh sự tiến trình từ “hình ảnh” đến “giống như” Thiên Chúa, trong đó chỉ Đấng Cứu Thế là hình ảnh trọn vẹn. Thánh Athanasiô xác định con người được dựng nên theo hình ảnh Ngôi Lời Nhập Thể. Thánh Grêgôriô Nyssa coi sự tự do là yếu tố cốt yếu để con người mang hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Irênê và Tertulianô đồng ý rằng con người vẫn giữ được hình ảnh ấy dù họ đã sa ngã phạm tội. Tertulianô còn nhấn mạnh “ý chí tự do” là yếu tố quan trọng. Thánh Hippôlytô coi con người là hình ảnh Thiên Chúa khi họ được thần hóa. Thánh Augustinô tin rằng hình ảnh Thiên Chúa nằm trong cấu trúc tam phân của linh hồn: ký ức, lý trí và ý chí, tương ứng với Ba Ngôi Thiên Chúa, dù họ bị tội lỗi che phủ nhưng hình ảnh ấy vẫn tồn tại nơi con người.

2. Suy tư của các thần học gia Kinh viện về “hình ảnh Thiên Chúa”

Tiếp nối nền thần học của các Giáo Phụ, các học giả thời Kinh viện cũng suy tư theo chiều hướng ‘con người là hình ảnh của Thiên Chúa’ và những sự suy luận ấy đã tạo nên một nền nhân học Kitô giáo độc đáo. Khi suy tư về “hình ảnh Thiên Chúa” nơi con người, đa số các thần học gia giai đoạn này chú trọng nhiều đến khả năng về lý trí, ý chí tự do. Nói cách khác, đa số các thần học gia Kinh viện thường nhấn mạnh đến lý trí, ý chí tự do như là sự thể hiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.

Trước tiên, Hugo Saint Victor, người ảnh hưởng tư tưởng của Platon, đã lập luận rằng linh hồn thì cao trọng hơn thân xác và linh hồn chính là toàn thể con người.[46] Ngược lại, Guillaume d’Auxerre thì đề cao sự “tự do, ý chí” của con người là hình ảnh tiêu biểu nhất của Thiên Chúa. Đối với ông, tự do là cái gì đó sâu thẳm không thể dò thấu; bởi lẽ, mọi sự phát xuất từ nó và chính nhờ tự do mà con người hướng về Thiên Chúa.[47]

Khác với quan điểm với Guillaume, thánh Bênađô thì tin rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa qua các tài năng lý trí và ý chí của con người. Khi Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài đã ban cho họ khả năng nhận biết và quyết định, để từ đó con người trở nên giống Thiên Chúa hơn.[48]

            Khác với tất cả các học giả khác, thánh Tôma Aquinô tin rằng: “Con người được dựng nên theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa, vì Ba Ngôi đều có cùng một bản tính thần linh, nên linh hồn con người là sự phản ảnh Ba Ngôi cách trọn vẹn”.[49] Thánh nhân suy tư rằng, tất cả Ba Ngôi cùng dựng nên con người giống hình ảnh mình. Con người có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, bởi vì con người phản ánh Thiên Chúa nơi chính bản thân qua những nét đặc thù của Thiên Chúa như lý trí, tự do và bản tính hướng về thần linh. Sau khi giải thích rằng cốt yếu của “hình ảnh Thiên Chúa” ở chỗ biết và mến Chúa, tác giả phân biệt ba cấp độ: Cấp I (imago creationis, naturae) có thể áp dụng cho tất cả mọi người, bởi vì bất cứ người nào cũng có khả năng hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa; cấp II (imago recreationis, gratiae) chỉ có ở nơi những người sống trong tình trạng ân sủng, nghĩa là khi họ thực sự hiểu biết và yêu mến Chúa (sự khác biệt giữa hai cấp nằm ở chỗ là ở cấp I, hết mọi người đều có khả năng hiểu biết và yêu mến Chúa, còn cấp II nói đến những người thực hiện sự hiểu biết và yêu mến Chúa); cấp III (imago similitudinis, gloriae) dành cho các thánh nhân trên trời, bởi vì họ hiểu biết và yêu mến Chúa cách trọn hảo.[50]

3. Suy tư của các thần học gia Cận-hiện đại về “hình ảnh Thiên Chúa”

Trên đây, người viết đã trình bày và phân tích tư tưởng của các thần học gia tiêu biểu thời Kinh viện về “hình ảnh Thiên Chúa”. Tiếp đến, người viết đề cập đến những suy tư thần học thời Cận-hiện đại về chủ đề này.

Trong hai thiên niên kỷ qua, các nhà thần học và các học giả đã nỗ lực tìm kiếm một sự đồng thuận về ý nghĩa của việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, dựa trên đoạn Sách Sáng thế (St 1, 26-27). Cần phải xác định rằng con người không phải là Thiên Chúa, mà là hình ảnh của Ngài. Sách Sáng Thế không cho chúng ta biết Thiên Chúa đã ban hay truyền đạt cách cụ thể về hình ảnh của Ngài cho con người như thế nào, nhưng các tác giả khẳng định rõ ràng rằng: “Thiên Chúa đã tạo nên con người theo hình ảnh Ngài” (St 1,27). Việc giải thích về con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa là một trong những nỗ lực suy tư thần học khá sôi nổi giai đoạn này. Đa số các thần học gia giai đoạn này nhấn mạnh đến “hình ảnh Thiên Chúa” như là yếu tố quan trọng làm nên “bản thể”, bản chất con người và phân biệt con người với các thụ tạo hữu hình khác mà Thiên Chúa đã dựng nên. Theo đa số các nhà thần học cận-hiện đại, hình ảnh của Thiên Chúa trong con người phải liên quan đến một số khía cạnh, trong đó con người giống với Thiên Chúa nhưng không giống như các loài động vật khác. Con người và các loài động vật khác đều là những thọ tạo được Thiên Chúa dựng lên, nên những khía cạnh chung mà con người chia sẻ với động vật không thể tạo nên sự khác biệt giữa con người với chúng. Vì con người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa nên phải có một số nét “giống” với Thiên Chúa mà các loài động vật khác không có được. Phải có một số khía cạnh nào đó trong cấu trúc hoặc bản chất của con người cho thấy, họ được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.

Đầu tiên, nhà thần học Gregory Boyd nhận định quan điểm nêu trên. Và dĩ nhiên, quan điểm đó cũng đã được nhiều nhà thần học vĩ đại trước đây ủng hộ như thánh Augustinô, thánh Tôma Aquinô và ngay cả nhà thần học cải cách như John Calvin cũng đồng ý. Họ xác định quan điểm về ‘bản chất’ của hình ảnh con người làm sáng tỏ vị trí của hình ảnh Thiên Chúa trong con người chính là linh hồn.[51]

Kế đến, thần học gia John Hammett cũng đồng ý quan điểm trên, nhưng ông thêm rằng hình ảnh con người qua bản chất ấy [linh hồn] phải kết hợp với những tài năng khác góp phần làm sáng tỏ về hình ảnh con người giống Thiên Chúa cách vẹn toàn hơn, nhờ vào cảm xúc, ý chí, lý trí và lương tâm.[52]

Bản chất về hình ảnh con người cũng được Boyd phát triển thêm, “vì con người gồm linh hồn và thân xác, nên con người có khả năng luôn hướng về điều thiện”[53]; vì thế, những hành động về bản năng của con người thì khác với các loài động vật khác. Vì vậy, con người luôn hướng về khả năng yêu thương, sự thánh thiện, ghét điều ác và chọn điều lành (2Sb 7, 14; 2Tm 2, 19-22; Mt 22, 36-40) là những món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa đã phú vào tâm hồn con người.[54] Còn Louis Berkhof thì lập luận: “Hình ảnh của Thiên Chúa bao gồm những thuộc tính cụ thể chỉ có ở con người, chẳng hạn như sức mạnh trí tuệ, tình cảm tự nhiên và tự do đạo đức”[55].

Các học giả khác như Brunner ủng hộ quan điểm tính toàn vẹn của hình ảnh của Thiên Chúa được ban cho tất cả mọi người và không ai có nhiều phẩm tính hình ảnh hơn những người khác. Do đó, ngay cả những người không theo đạo Công giáo họ vẫn hoàn toàn là con người, giống như những tín hữu tận tụy của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người thật sự và mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa. Họ đều được ban cho khả năng nhận biết chân lý, khả năng suy luận, đánh giá và phân biệt được điều tốt cũng như điều xấu… mặc dù họ chưa được nhận biết về Thiên Chúa, về Thánh Kinh và những giáo lý của Ngài. Vì vậy, Brunner nhận định rằng dù chưa nhận biết Thiên Chúa cách trọn vẹn, nhưng họ có thể đạt được một phần chân lý về Ngài qua những hành động hướng thiện và những việc làm tốt lành ngoài ân sủng.[56]

Mặc dù cách giải thích này đã được một số bộ óc thần học vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội phương Tây ủng hộ, nhưng chắc chắn là chưa đủ. Thần học gia Joel Beeke không đồng ý với quan điểm của Brunner, vì ông cho rằng nếu hình ảnh của Thiên Chúa không gì khác hơn là sự phản chiếu trong gương như Brunner đã gợi ý, thì khi tấm gương quay đi, hình ảnh đó sẽ biến mất. Vì vậy, hình ảnh Thiên Chúa phải vượt lên trên những điều ấy và đó chính là mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa.[57]

Cũng đồng quan điểm với Joel Beeke, Ron Highfield nhận đình rằng hình ảnh Thiên Chúa trong con người giống như sự phản ánh mối tương quan giữa các ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Ông giải thích: “Bản chất của Thiên Chúa là mối tương quan, vì Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta phải phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa đến mức chúng ta duy trì mối quan hệ giữa Thiên Chúa và đồng loại.”[58]

Ngược lại, triết gia Immanuel Kant đã bác bỏ quan điểm về ‘mối tương quan hình ảnh Thiên Chúa nơi con người’. Ông coi bản chất con người là hình ảnh Thiên Chúa. Theo Kant, “quyền tự chủ là nền tảng của phẩm giá con người và mọi sinh vật có lý trí”. Ông lập luận thêm: “Bản chất của sự vật không bị thay đổi bởi các mối quan hệ bên ngoài của chúng”. Nói cách khác, con người giống hình ảnh Thiên Chúa vì một điều gì đó nội tại trong bản chất của họ chứ không phải vì họ có tương quan với Thiên Chúa.[59]

Không cùng quan điểm với các thần học gia trên, Berkouwer dựa vào đoạn Kinh Thánh (St 1,26-28), ông cho rằng quyền thống trị mà Thiên Chúa đã ban cho con người làm cho con người là hình ảnh của Thiên Chúa nhất; dù quyền này được ban sau khi con người được dựng nên.[60] Gerhard von Rad cũng đồng ý như thế khi khẳng định rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa khi con người thực hiện quyền thống trị và ông diễn giải qua một ví dụ: “Một vị vua trần thế đầy quyền lực, để thể hiện quyền thống trị của mình, đã dựng tượng của mình ở các vùng trong đế quốc của mình, nơi ông không đích thân xuất hiện. Tương tự như vậy, con người được đặt trên trái đất theo hình ảnh của Thiên Chúa như biểu tượng tối cao của Ngài.”[61] Berkhof thì bác bỏ lập luận trên của Berkouwer và Gerhard von Rad, ông khẳng định rằng quyền thống trị là một nhiệm vụ được Thiên Chúa trao cho con người chứ không phải là bản chất của hình ảnh con người giống Thiên Chúa.[62] Karl Barth thì đề cao đến khía cạnh giới tính của nhân loại, người nam và người nữ là hình ảnh của Thiên Chúa,[63] vì ông đã dựa vào trình thuật trong Sáng Thế chương một: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1, 27).

Thần học gia Ronald Allen có cái nhìn tổng quát hơn Karl Barth khi ông cho rằng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người được nhận biết trong toàn bộ hữu thể của họ, bao gồm cả thân xác và linh hồn và với tư cách là người nam - người nữ trong mối tương quan với Thiên Chúa và họ có quyền thống trị vũ trụ mà Thiên Chúa đã ban cho họ.[64]

Như vậy, nỗ lực tìm hiểu ý nghĩa của việc con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 26-27) luôn được duy trì từ thời các Giáo Phụ đến thời Kinh viện và cho đến thời hiện đại. Nếu các nhà thần học như Irenaeus, Augustinô, Tôma Aquinô, và John Calvin đã cố gắng trình bày linh hồn con người là hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện qua việc liên kết với Thiên Chúa, đồng thời nhấn mạnh con người có lý trí, cảm xúc, ý chí và lương tâm, thì các thần học gia cận-hiện đại cũng vẫn tiếp tục đào sâu những khía cạnh đó khi suy tư về “hình ảnh Thiên Chúa” nơi con người. Một số học giả như Berkhof và Highfield trình bày con người được Thiên Chúa ban quyền thống trị và mối tương quan với Thiên Chúa phản ánh họ là hình ảnh Thiên Chúa. Immanuel Kant thì nhấn mạnh phẩm giá nội tại của con người. Berkouwer và Von Rad thì xác định quyền thống trị của con người là biểu tượng của hình ảnh Thiên Chúa trên mặt đất. Karl Barth thì đề cao đến khía cạnh giới tính của nhân loại, người nam và người nữ. Ronald Allen thì có cái nhìn rộng hơn khi cho rằng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người được nhận biết trong toàn bộ hữu thể của họ bao gồm thân xác, linh hồn, mối tương quan với Thiên Chúa, quyền thống trị và giới tính nam nữ.

CHƯƠNG III: NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA THỜI ĐẠI HÔM NAY VÀ GIÁO HUẤN  CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II VỀ “HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA” NƠI CON NGƯỜI

Con người là thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài và hình ảnh ấy rực sáng trong sự hiệp thông ngôi vị, giống sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa.[65] Hình ảnh Thiên Chúa được biểu hiện qua việc con người sở hữu ý chí tự do và lý trí để nhận biết Thiên Chúa, tha nhân, chính mình và vũ trụ. Tuy nhiên, nhiều khi con người lại dùng chính các tài năng Thiên Chúa ban để làm lu mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình. Đối diện những thách đố đó, Giáo huấn của Công đồng Vaticanô II làm sáng tỏ giá trị cao quý về phẩm giá và hình ảnh đích thực của con người qua mẫu gương của Đức Kitô; gắn kết với Ngài, con người sẽ sống trọn vẹn căn tính và mối tương quan với Thiên Chúa.

1. “Hình ảnh Thiên Chúa” trước những thách đố của thời đại ngày nay

1.1. Một thời đại con người đang lấy mình làm trung tâm

Trong thời đại hôm nay, dường như con người đang đặt mình vào vị trí trung tâm của vũ trụ mà không còn cần đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Nói cách khác, lối sống vô thần thực tiễn trong xã hội ngày nay đang là mối nguy hại đáng phải lưu tâm:

Mối nguy lớn của xã hội ngày nay lại không phải là những chủ thuyết vô thần lý thuyết mà chính là thái độ vô thần thực tiễn. Vô thần thực tiễn là thái độ không cần biết Thượng Đế có hay không, hoặc cũng có thể người ta tự xưng mình là hữu thần, nhưng cách sống lại không dính dáng gì tới Thiên Chúa cả.

Nếu như chủ thuyết vô thần lý thuyết muốn chối bỏ Thượng Đế nhân danh con người, nhân danh tự do hoặc nhân danh một thứ khoa học thực nghiệm nào đó; thì chính chủ nghĩa vô thần thực tiễn mới tạo nên và nuôi dưỡng những bóng ma ghê gớm hơn trong cuộc chiến chống lại Thiên Chúa và chống lại con người: hưởng thụ, dửng dưng với tha nhân, lấy mình làm trung tâm của vũ trụ, tàn ác, bất công…[66]

 

Thái độ sống ấy không chỉ là sự thờ ơ, không quan tâm đến sự hiện hữu của Thiên Chúa, mà còn là một kiểu sống dửng dưng với các giá trị tôn giáo, mặc dù con người có thể tự xưng là hữu thần. Đây là mối nguy hiểm lớn hơn cả vô thần lý thuyết, vì nó dẫn con người đến sự hưởng thụ ích kỷ, dửng dưng với người khác và lấy mình làm trung tâm, từ khước tha nhân và trên hết là nó loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người.

Thực ra, khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống nhân thế đã manh nha từ lâu. Đã có một thời người ta cho rằng nếu Thiên Chúa có mặt, thì con người không có tự do. Chẳng hạn, triết gia Jean Paul Sartre đã lý luận: “Nếu Thượng Đế vắng mặt, thì mọi thứ đều được phép và con người tự do sáng tạo theo bản chất của mình”[67]. Theo Sartre, sự vắng mặt của Thượng Đế không chỉ giúp giải thoát con người khỏi các ràng buộc siêu nhiên, mà còn mang lại cho họ sự tự do để tự quyết định mọi khía cạnh của cuộc sống.

Dưới ánh sáng Mạc Khải, chúng ta biết rằng Thiên Chúa là trung tâm của vũ trụ và là nguồn gốc của mọi sự sống (St 1,1). Mọi giá trị đức tin, quy tắc đạo đức và chuẩn mực của con người đều xoay quanh niềm tin vào sự hiện diện và uy quyền của Thiên Chúa (Tv 115,3). Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, hình như con người bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời từ chính mình, từ những trải nghiệm cá nhân đến sự thành công vật chất mà họ đạt được. Những thành quả vật chất đã đem lại cho con người sự sung túc mà trước đây chỉ có thể được gán cho Thiên Chúa. Có vẻ như con người thời nay có thể tự mình làm ra mọi thứ, thay đổi và kiểm soát cuộc sống của mình mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. “Vấn đề Thiên Chúa không quan trọng đối với tôi. Tôi có thể sống mà chẳng cần đến Thiên Chúa”.[68]

Việc lấy con người làm trung tâm cuộc sống cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi vị trí vốn có của Ngài. Sở dĩ người ta có chủ trương loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống vì người ta thấy sự hiện diện của Thiên Chúa là yếu tố cản trở khiến con người không thể hoàn toàn tự do. Do đó, việc loại bỏ Thiên Chúa không chỉ là một xu hướng, mà còn trở thành một nhiệm vụ đối với những ai tin rằng nhân loại phải được giải phóng khỏi mọi ràng buộc siêu nhiên.

Trong bối cảnh này, không có gì đáng ngạc nhiên khi người ta chấp nhận và thậm chí cổ võ việc sống cho chính mình, cho tự do cá nhân mà không phải tuân theo bất kỳ giới luật hay đạo đức nào có nguồn gốc từ niềm tin vào Thiên Chúa. Từ đó, những giá trị như hưởng thụ, thỏa mãn dục vọng cá nhân, quyền lực và theo đuổi hạnh phúc vật chất trở thành mục tiêu hàng đầu. Thật vậy, “người ta không chỉ có những ước vọng được thỏa mãn phần thể xác như ăn uống, ngủ nghỉ, tình dục…  mà còn luôn nuôi trong mình thứ đam mê được sở hữu vật chất lẫn tinh thần”[69]. Chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa thế tục lên ngôi, trong khi những nguyên tắc đạo đức truyền thống Kitô giáo bị coi là lỗi thời và không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại.

Với sự phát triển của các triết lý đề cao tự do cá nhân quá mức như Frank Herbert phát biểu, “hãy tìm kiếm tự do và trở thành tù nhân của dục vọng”[70], thì việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi trung tâm cuộc đời đã trở thành một điều không thể tránh khỏi. Người ta tin rằng chỉ khi nào sự tự do thoát khỏi mọi ràng buộc siêu nhiên, con người mới có thể thực sự sống theo cách mình muốn và đạt được hạnh phúc.[71] Họ không còn coi Thiên Chúa là nguồn gốc của sự sống hay là trung tâm của vũ trụ nữa, mà thay vào đó, bản thân con người với lý trí và khả năng tự quyết đã trở thành tiêu chuẩn cho mọi hành vi và quyết định.

Như vậy, xem ra con người thời đại ngày nay đang có khuynh hướng biến mình thành trung tâm của vũ trụ, mọi thứ phải tập trung và xoay quanh vào họ. Con người không cần đến Thiên Chúa và giáo huấn của Người để hướng dẫn cuộc sống (cf. Tv14,1). Thay vào đó, con người tự tạo ra ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống của mình. Với chủ trươn này, dường như con người không chỉ tự do trong hành động, mà còn tự do trong suy nghĩ, không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ quy tắc đạo đức nào do tôn giáo nào áp đặt.

1.2. Một thời đại công kỹ nghệ khoa học không có hy vọng

Con người ngày nay đang sống trong một thời đại được xem là thịnh vượng và phát triển nhất trong lịch sử. Những tiến bộ vượt bậc của khoa học và kỹ thuật đã mang lại cho nhân loại nhiều thành tựu vật chất đáng kể, cải thiện chất lượng cuộc sống trên nhiều phương diện. Những phát minh mang tính đột phá lớn như trí tuệ nhân tạo (AI), y học, khoa học vũ trụ… giúp cho con người có thể dễ dàng tận hưởng những tiện ích trong cuộc sống.

Tuy nhiên, nếu con người chỉ đề cao những thành tựu khoa học nhờ sức mạnh của lý trí mà lãng quên Đấng Tạo Hóa, thì nguy hại lớn lao sẽ xảy đến. Sự đề cao quá mức lý trí và khoa học có thể dẫn đến việc gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi nội tâm, biến Ngài thành một thực tại xa vời và không cần thiết trong cuộc sống đức tin.

Điều này không phải là điều mới mẻ, vì khi nhìn lại lịch sử, ta thấy sự thất bại của chủ thuyết Thiên quang luận đã một thời đề cao lý trí con người đến mức loại bỏ hoàn toàn sự hiện diện và vai trò của Thiên Chúa.[72] Họ cho rằng tôn giáo sẽ dần biến mất để nhường chỗ cho thời đại lý trí tự do, sáng tạo và điều khiển bởi con người. Những người theo chủ thuyết này tin rằng lý trí con người đủ khả năng để giải quyết mọi vấn đề và không cần đến một Thiên Chúa Siêu Việt nào. Con người sẽ hoàn toàn tự lập, không còn bị ràng buộc bởi những giáo điều tôn giáo và từ đó sẽ đạt được tự do, phẩm giá và sự độc lập mà họ mong muốn. Quan điểm này cho rằng khi Thiên Chúa bị gạt ra một bên, con người sẽ thoát khỏi những gò bó của tín điều và lý trí sẽ trở thành công cụ duy nhất để điều hành thế giới.

Tuy nhiên, điều mà chủ thuyết nói trên không lường trước được là sự thiếu hụt của một đời sống tâm linh sẽ dẫn đến sự khô cằn và cô đơn của tâm hồn. Khi lý trí trở thành thước đo duy nhất của mọi giá trị, con người dễ rơi vào tình trạng đánh mất ý nghĩa sâu xa của cuộc sống đức tin, lạc hướng trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc thật sự. Như thế, điều này không chỉ thay đổi nhận thức về cách đối xử với người khác, mà nó còn ảnh hưởng sâu rộng đến cách con người phản tỉnh bản thân về ý nghĩa cuộc hiện sinh của chính họ. Đây là một xu hướng nguy hiểm, vì nó không chỉ làm mất đi sự cân bằng trong đời sống tâm linh mà còn làm suy yếu nền tảng đạo đức và luân lý của con người.

Thật vậy, khi lý trí trở thành tiêu chuẩn duy nhất cho mọi hành động, con người không còn cần đến sự soi sáng của Thiên Chúa để phân định đúng sai. Lý trí, lúc này được coi là công cụ tối thượng để đạt được sự hiểu biết và kiểm soát thế giới, giờ đây được dùng để biện minh cho mọi hành động, kể cả những hành vi đi ngược lại các giá trị đạo đức. Trong bối cảnh này, tiếng nói của lương tâm dần dần mất đi sức mạnh, con người không còn ý thức về những việc làm sai trái và tội lỗi. Hậu quả là họ ngày càng xa rời bản chất tốt lành của mình, rơi vào sự tha hóa tinh thần và đánh mất ý nghĩa sâu xa của đời sống đức tin.

Sự thiếu vắng của chiều kích Siêu Việt trong đời sống con người không chỉ làm suy yếu nền tảng đạo đức, mà điều đó còn làm mất đi sự hài hòa giữa các yếu tố làm nên con người toàn diện. Truyền thống Kitô giáo từ lâu đã khẳng định rằng con người không chỉ là một thực thể có lý trí, mà nó còn là một tạo vật được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, mang trong mình một chiều kích siêu việt. Sự cao quý của con người không chỉ nằm ở lý trí và ý chí, mà còn ở mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt trên tất cả mọi sự. Khi con người đánh mất mối tương quan này, họ cũng đánh mất một phần bản chất của mình, trở thành những thực thể chỉ biết sống cho cái hữu hạn mà quên đi cái vô hạn, chỉ biết chăm lo cho cuộc sống trần thế mà quên đi cõi đời sau.

2. Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II về “Hình ảnh Thiên Chúa”

Giáo huấn của Công đồng Vatican II về “Hình ảnh Thiên Chúa” tập trung vào ba khía cạnh quan trọng để làm sáng tỏ phẩm giá và thiên chức cao cả của con người.[73] Trước tiên, con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa với khả năng hiểu biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa. Điều này không chỉ khẳng định phẩm giá con người mà còn giải thích sự khắc khoải nội tâm do cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Hơn nữa, Công đồng nhấn mạnh đến những tài năng tinh thần cao quý của con người như lý trí, lương tâm và tự do, giúp họ nhận biết sự thật, thực thi điều thiện, và hành động theo tiếng gọi của Thiên Chúa, hướng đến hạnh phúc vĩnh cửu.

Cuối cùng, Công đồng khẳng định rằng qua Đức Kitô, con người tìm thấy mẫu gương hoàn hảo. Đức Kitô không chỉ mặc khải Thiên Chúa cho con người, mà Ngài còn tỏ cho con người biết về chính họ, từ đó con người nhận ra thiên chức và mục đích cao cả trong cuộc sống, đạt đến sự hoàn thiện qua mối tương quan với Ngài.[74]

2.1. Con người trong tương quan với Thiên Chúa

Theo Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, con người không chỉ là một thực thể thuần túy vật chất, mà nó còn mang trong mình một chiều kích siêu nhiên sâu sắc, được Thiên Chúa tạo dựng nên theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài.[75] Ngay từ những trang đầu tiên của Sách Thánh, chúng ta đã được dẫn vào chân lý căn bản này: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Qua việc tạo dựng này, Thiên Chúa đã ban cho con người một phẩm giá cao quý, không chỉ vì con người được dựng nên để cai quản vạn vật, mà quan trọng hơn, con người có khả năng hiểu biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa. Điều này đặt con người vào một vị trí độc đáo trong trật tự tạo dựng, vượt trên mọi thụ tạo khác.

Phẩm giá của con người được đề cao bởi khả năng đặc biệt của lý trí. Lý trí giúp con người không chỉ nhận biết những điều thuộc thế giới hữu hình, mà nó còn giúp con người mở lòng đón nhận những chân lý siêu việt về Thiên Chúa. Nhờ lý trí, con người có thể suy tư về nguồn gốc của mình, về Đấng đã tạo dựng vũ trụ trời đất và muôn loài. Thánh Tôma Aquinô đã từng khẳng định rằng sự hiểu biết là một hành vi của linh hồn, nơi mà con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua sự chiêm niệm và suy tư.[76] Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có khả năng thấu hiểu phần nào bản tính của Thiên Chúa và tham gia vào đời sống của Ngài. Khả năng này không chỉ dừng lại ở việc biết mà còn dẫn đến yêu mến, bởi lẽ hiểu biết chân lý sẽ dẫn đến tình yêu. Khi con người nhận ra rằng chính Thiên Chúa là nguồn cội của mọi sự sống, là Đấng Toàn Thiện, Toàn Mỹ, con người sẽ được thúc đẩy để yêu mến Ngài bằng tất cả tâm hồn, trí khôn và sức lực.

Tuy nhiên, với sự tự do được ban tặng, con người phải thể hiện một vai trò quyết định trong cuộc giao tranh nội tâm giữa thiện và ác. Đây là một cuộc chiến không chỉ tồn tại trên bình diện đạo đức mà còn phản ánh một thực tại siêu nhiên sâu xa hơn. Kinh Thánh và Truyền thống Kitô giáo đã nhắc nhở chúng ta về sự sa ngã của con người đầu tiên, từ đó mọi hậu duệ của họ phải chịu hậu quả là đau khổ, dễ hướng chiều về tội lỗi và sự chết. Chính tội lỗi đã làm phai nhạt hình ảnh Thiên Chúa trong con người, làm suy yếu khả năng yêu mến và nhận biết Ngài. Dầu vậy, điều này không có nghĩa là hình ảnh Thiên Chúa hoàn toàn bị phá hủy trong con người. Đúng hơn, hình ảnh ấy chỉ bị lu mờ và cần được phục hồi qua ân sủng Đức Kitô.

Chính trong tương quan với Thiên Chúa, con người mới có thể tìm thấy sự giải đáp cho những khắc khoải nội tâm sâu xa nhất của mình. Những lo âu, băn khoăn về số phận sau cái chết, về ý nghĩa cuộc đời và về cuộc giao tranh giữa thiện và ác chỉ có thể được giải thích trọn vẹn khi con người quay về với Đấng Tạo Hóa. Thánh Augustinô đã từng nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, nên tâm hồn chúng con khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”[77]. Chỉ khi nào con người hướng về Thiên Chúa, con người mới có thể tìm thấy sự an bình và hạnh phúc trọn vẹn.

Thật vậy, theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, khi con người nhận ra rằng mình được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, họ sẽ hiểu rằng cuộc sống của mình không thể chỉ xoay quanh những giá trị trần thế, những ham muốn nhất thời, mà phải được định hướng bởi những giá trị vĩnh cửu, những điều thuộc về Thiên Chúa.[78] Chỉ khi quy hướng về Thiên Chúa, con người mới có thể tìm lại được sự hòa hợp nguyên thủy đã bị đánh mất do tội lỗi. Điều này không chỉ đòi hỏi một sự hoán cải cá nhân, mà còn cần một sự thay đổi toàn diện trong cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới xung quanh dưới ánh sáng của đức tin.

Ngoài ra, cũng theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, trong mối tương quan với Thiên Chúa, con người không chỉ nhận ra phẩm giá cao quý của mình mà còn hiểu được lý do tại sao họ luôn cảm thấy bất an, lo âu về số phận của mình sau cái chết.[79] Câu hỏi về sự sống sau cái chết là một trong những câu hỏi lớn nhất mà con người luôn trăn trở. Từ ngàn xưa, con người đã tìm đủ mọi cách để giải đáp cho câu hỏi này, nhưng mọi nỗ lực của con người đều dẫn đến bế tắc khi không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chỉ khi con người nhận ra rằng mình được dựng nên không chỉ để sống một cuộc đời tạm bợ trên trần gian, mà còn để hướng tới một cuộc sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, họ mới có thể tìm thấy sự bình an thật sự.

Chính Đức Kitô, qua mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh, đã mở ra cho con người con đường dẫn đến sự sống đời đời.[80] Khi nhìn lên thập giá, con người không chỉ thấy sự đau khổ, mà còn thấy được tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho họ. Chính tình yêu này đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, đem lại cho con người niềm hy vọng vào sự sống đời đời. Vì thế, chỉ khi quy chiếu về Thiên Chúa, con người mới có thể vượt qua được những lo âu về số phận sau cái chết và đạt tới sự sống bất diệt. Sự sống bất diệt này không chỉ là một sự kéo dài vô tận của cuộc sống trần gian, mà là một sự biến đổi hoàn toàn, nơi con người được thông hiệp trọn vẹn với Thiên Chúa trong vinh quang. Đây là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống con người, là đích đến mà mọi người Kitô hữu phải hướng tới. Khi con người sống với ý thức rằng mình được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, họ sẽ biết trân trọng cuộc sống hiện tại, nhưng đồng thời cũng không quên hướng tới cuộc sống mai sau, nơi mà mọi khắc khoải, lo âu sẽ được thay thế bằng niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa.

Như vậy, con người chỉ có thể hiểu được bản thân mình và cuộc sống của mình khi họ nhìn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người mang trong mình một phẩm giá cao quý và một khả năng đặc biệt để hiểu biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa. Tuy nhiên, cuộc sống của con người không tránh khỏi những khắc khoải, lo âu do hậu quả của tội lỗi. Công đồng nhấn mạnh rằng chỉ khi quay về với Thiên Chúa, con người mới có thể tìm thấy sự bình an thật sự và đạt tới sự sống đời đời, điều mà mọi người Kitô hữu đều hằng mong đợi.[81]

2.2. Những tài năng cao quý của con người

Công đồng Vatican II đã mang đến một cái nhìn sâu sắc và phong phú về con người, nhấn mạnh đặc biệt đến phẩm giá cao quý của con người thông qua các tài năng tinh thần như lý trí, tự do và lương tâm.[82] Những yếu tố này không chỉ là những phẩm chất tự nhiên mà còn phản ánh chiều kích siêu việt của con người, mời gọi họ sống theo hình ảnh của Thiên Chúa và hướng đến hạnh phúc vĩnh cửu.

Trước hết, lý trí là một tài năng cao quý mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người. Theo Công đồng Vatican II, lý trí không chỉ giúp con người nhận biết các hiện tượng bên ngoài mà còn cho phép họ hiểu sâu xa về bản chất của mọi thực tại.[83] Lý trí là cánh cửa mở ra chân lý, cho phép con người khám phá ra ý nghĩa sâu xa của cuộc sống đời mình và vũ trụ. Khi sử dụng lý trí một cách đúng đắn, con người có thể nhận biết và hiểu biết về Đấng Tạo Hóa, Đấng là nguồn gốc của mọi sự hiện hữu. Lý trí còn giúp con người phân biệt giữa điều thiện và điều ác, giữa sự thật và sự giả dối, từ đó giúp con người biết chọn lựa những giá trị chân chính. Điều này không chỉ là một hành động lý trí mà còn là một hành động đức tin, bởi lẽ lý trí giúp con người hiểu rằng mọi chân lý đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và Ngài chính là Chân Lý tuyệt đối. Khi con người tìm kiếm và khám phá ra chân lý, họ thực sự đang tiến gần hơn đến Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi chân lý.

Tuy nhiên, lý trí không phải là yếu tố duy nhất làm nên phẩm giá hay hình ảnh của con người nhưng còn có lương tâm. Lương tâm, như Công đồng Vatican II nhấn mạnh, là một khía cạnh cốt yếu khác của con người, phản ánh tiếng nói của Thiên Chúa trong sâu thẳm lòng người. Lương tâm không chỉ là một khả năng nội tâm giúp con người phân biệt đúng sai, mà đó còn là nơi gặp gỡ riêng tư giữa con người và Thiên Chúa.[84] Lương tâm là tiếng nói thầm kín mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong lòng mỗi người, hướng dẫn họ đi theo con đường chân lý và thiện mỹ. Lương tâm có nguồn gốc thiêng liêng, nên nó không thể bị can thiệp hay ép buộc bởi bất kỳ ai. Dưới ánh sáng của mặc khải, lương tâm được coi là một trong những tài năng của con người, bởi vì nó thúc đẩy con người hành động theo các giá trị chân thật, mà đỉnh cao là tình yêu và sự công bình. Lương tâm không chỉ đơn thuần là một sự tự nhận thức về đúng sai, mà nó còn là sự phản ánh tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, mời gọi họ sống xứng đáng với hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình và hướng họ về mục đích cuối cùng là đạt được hạnh phúc vĩnh cửu.

Tiếp đến, tự do là yếu tố quan trọng làm nên phẩm giá của con người. Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh rằng tự do không chỉ đơn thuần là khả năng chọn lựa chọn, mà còn là khả năng hành động theo những giá trị chân lý đã được lương tâm và lý trí hướng dẫn.[85] Tự do đích thực không phải là muốn làm gì thì làm, hay làm theo ý muốn cá nhân và không quan tâm đến hậu quả. Tự do đích thực là “tự do luôn hướng về điều chân, thiện, mỹ”[86], và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Khi con người hành động theo tự do, họ thực sự trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của mọi tự do và là Đấng tuyệt đối tự do trong tình yêu. Nhờ tự do, con người có thể tham gia vào sự sống của Thiên Chúa và trong sự hiệp nhất với Ngài.

Tuy nhiên, tự do không phải là một đặc quyền mà con người có thể sử dụng một cách tùy tiện. Công đồng Vatican II đã cảnh báo về nguy cơ của việc lạm dụng tự do dẫn đến tình trạng mất phương hướng và rơi vào tội lỗi.[87] Tự do phải được đào luyện và phát triển theo sự hướng dẫn của lý trí và lương tâm. Khi con người chọn lựa hành động theo những giá trị của chân lý, tự do của họ càng được củng cố và tăng triển. Ngược lại, khi con người chọn lựa hành động đi ngược lại với ý muốn của Chúa, họ đang tự đánh mất sự tự do của mình và trở nên nô lệ cho tội lỗi và đam mê.

Tóm lại, trong ánh sáng của Công đồng Vatican II, hình ảnh và phẩm giá của con người được chiếu sáng rực rỡ qua ba tài năng cao quý: lý trí, lương tâm và tự do. Những tài năng này không chỉ giúp con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình mà còn mở ra con đường dẫn đến hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Khi con người sử dụng lý trí để nhận biết sự thật, lắng nghe lương tâm để phân định đúng sai và hành động tự do theo ý muốn của Thiên Chúa, họ thực sự đang sống và phác hoạ hình ảnh của Thiên Chúa trong họ, Đấng đã tạo dựng nên họ.

2.3. Con người lý tưởng trong Đức Kitô

Trong quá khứ, khi giải thích từ ngữ “con người là hình ảnh của Thiên Chúa”, thần học thường chỉ chú trọng tới hình ảnh xét theo chương trình tạo dựng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sâu về Tân Ước và những suy tư của các giáo phụ, người ta đã bắt đầu khám phá và nhận ra rằng để có thể hiểu một cách đúng đắn về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, cần phải quy chiếu về Đức Kitô. Đức Kitô, Đấng Cứu Thế không chỉ là sự mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa, mà Ngài còn là sự mặc khải ‘con Người cho con người’. Ngài là Đấng mà qua đó con người nhận ra giá trị của bản thân mình, khám phá ra phẩm giá, thiên chức và mục đích mà Thiên Chúa đã định sẵn. Công đồng Vaticano II đã nhấn mạnh rằng: “Qua Đức Kitô con người không chỉ thấy được hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ngài đã tỏ cho nhân loại thấy mẫu gương của một con người có trí tuệ, ý chí, tự do và tình yêu.”[88]

Trước tiên, Đức Kitô là sự mạc khải trọn vẹn về Thiên Chúa, vì trong Ngài, Thiên Chúa đã làm người và ở giữa nhân loại. Qua Đức Kitô, con người có thể nhận biết Thiên Chúa và đi vào mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Không những vậy, Đức Kitô cũng mạc khải cho con người biết về thân phận của họ. Trong Ngài, con người thấy rõ phẩm giá của mình không nằm ở những thành tựu thế gian, mà nó hệ tại ở chỗ con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa và là người con hoàn hảo của nhân loại, Đức Kitô đã cho thấy con người không phải là một thực thể đơn độc mà là một hữu thể được Thiên Chúa dựng nên với mục đích rõ ràng: để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và với tha nhân. Con người chỉ có thể hiểu rõ về bản thân khi họ nhìn về Đức Kitô. Qua Đức Kitô, mầu nhiệm về con người được vén mở với phẩm giá và hình ảnh cao quý của họ: “Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Bởi vì Adam, con người đầu tiên, đã là hình bóng của Adam sẽ đến.”[89]

Hơn nữa, theo Công đồng Vatican II,  khi hướng về Đức Kitô, con người không chỉ được kêu mời sống theo những giá trị luân lý cao đẹp, mà họ còn được mời gọi đạt tới sự hoàn thiện toàn diện, sự viên mãn trọn vẹn trong tình yêu. Điều này đòi hỏi một sự dấn thân trọn vẹn vào đời sống Kitô giáo và một lòng trung thành với những giá trị Tin Mừng. Qua Đức Kitô, con người nhận ra được con đường dẫn tới sự hoàn thiện. Ngài không chỉ là Đấng Cứu Chuộc, mà Ngài còn là người thầy, người bạn và mẫu gương lý tưởng cho mỗi người Kitô hữu.[90]

Đức Kitô đã mang trong mình bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại; nhờ vậy, con người được mời gọi sống cuộc sống tràn đầy ý nghĩa, không phải theo những chuẩn mực của thế gian, nhưng theo chuẩn mực của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Khi sống theo gương Đức Kitô, con người không chỉ sống cho riêng mình, mà còn sống cho tha nhân và qua đó họ góp phần vào việc xây dựng Nước Trời. Đây là thiên chức cao cả mà mỗi người Kitô hữu được mời gọi thực hiện, một thiên chức không chỉ giới hạn trong cuộc sống trần gian, mà còn mở ra cho họ sự sống đời đời.

Đức Kitô không chỉ mạc khải con người cho con người bằng lời nói hay giáo huấn, mà bằng chính đời sống và hành động của Ngài. Ngài đã sống một cuộc đời hoàn hảo, yêu thương đến cùng, sẵn sàng hiến mạng sống vì nhân loại. Qua việc chịu chết trên thập giá và Phục sinh, Ngài đã mở ra cho con người con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu. Con người, khi nhìn vào Đức Kitô, sẽ thấy rằng cuộc sống không chỉ dừng lại những thực tại vật chất chóng qua của trần thế, mà họ còn hướng về một thực tại cao cả hơn, đó là sự sống đời đời trong Thiên Chúa.

Như vậy, trước những thách đố của thời đại hiện đại, Công đồng Vaticanô II không chỉ nhấn mạnh đến con người là hình ảnh của Thiên Chúa mà còn đề cao vai trò của Đức Kitô trong việc phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Kitô là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15) và là nguyên mẫu hoàn hảo mà con người được mời gọi hướng đến. Công Đồng Vaticano II cũng khẳng định rằng chỉ qua Đức Kitô, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người mới được chiếu sáng và thể hiện trọn vẹn trong thế giới hiện đại quá đề cao lý trí và tự do cá nhân. Đức Kitô là mẫu gương đích thực để con người khám phá lại hình ảnh và sứ mệnh của mình, không chỉ trong chiều kích nhân loại mà còn trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, để nhờ đó họ sống trọn vẹn ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.

KẾT LUẬN

Trong ánh sáng mạc khải Kinh thánh, con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Qua sự giải thích của Truyền thống các Giáo phụ, các nhà thần học và Giáo huấn Giáo hội, chúng ta biết rằng hình ảnh Thiên Chúa nơi con người được phản ánh qua lý trí và ý chí tự do, qua chiều kích siêu việt và mối tương quan sống động của  họ với Đấng Tạo Hóa. Điều này không chỉ khẳng định phẩm giá cao quý của con người so với các loài thụ tạo khác, mà còn nhấn mạnh khả năng nhận thức, tự chủ của con người trong việc đi vào giao ước với Thiên Chúa. Những yếu tố này giúp con người hướng tới sự sống vĩnh cửu và thể hiện trọn vẹn bản tính ngôi vị. Một cách đặc biệt, phẩm vị con người được làm sáng tỏ trọn vẹn trong mạc khải Tân Ước qua Đức Giêsu Kitô. Ngài chính là hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa vô hình, đồng thời là mẫu gương giúp con người nhận ra và sống đúng căn tính và sứ mệnh cao cả mà họ được mời gọi.

Tuy nhiên, trong thời đại hôm nay, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người đã và đang bị làm lu mờ trước những áp lực và cám dỗ của một thế giới quá chú trọng vào lý trí và vật chất. Thật vậy, nhiều khi chính công nghệ và khoa học kỹ thuật hiện đại lại có thể làm con người dễ dàng rơi vào trạng thái quên lãng chiều kích siêu việt của mình. Dường như con người bị cám dỗ chìm đắm trong các tiện nghi vật chất, sự hưởng thụ đời này mà quên đi sứ mệnh cao cả của mình. Hệ quả là hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, vốn được tạo dựng để sống hiệp thông với Thiên Chúa, dần bị phai nhạt trong một xã hội đề cao lý trí và quyền tự do cá nhân quá mức. Đây là một thách thức lớn đối với đức tin Kitô giáo trong việc bảo vệ và khôi phục hình ảnh Thiên Chúa nơi con người trong bối cảnh văn hóa hiện đại.

Đáp lại những thách đố của thời đại, dưới ánh sáng của Lời Chúa, Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm sáng tỏ hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô không chỉ là mẫu gương hoàn hảo của hình ảnh Thiên Chúa, mà Ngài còn là con đường dẫn con người trở về với căn tính đích thực của mình. Công đồng cũng khẳng định rằng chỉ qua Đức Kitô, con người mới có thể tái khám phá và sống trọn vẹn ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, đồng thời tìm được giải pháp cho những thách đố của thế giới hiện đại. Như vậy, con người chỉ thực sự đạt tới sự viên mãn của mình khi sống trong mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa, qua việc mặc lấy con người mới trong Đức Kitô và qua đó con người không chỉ tìm lại phẩm giá thiêng liêng của mình mà còn sống trọn vẹn ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, hướng về sự sống vĩnh cửu và hiệp thông với Đấng Tạo Hoá.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Kinh Thánh và Huấn Quyền

Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Tp.HCM: Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998.

Công Đồng Vaticanô II, bản dịch của Hội Đồng Giám mục Việt Nam, Uỷ Ban Giáo lý Đức Tin. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.

Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin - Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Tông Huấn Gaudete Et Exsultate (19/03/2018) người dịch Võ Văn Ngân. Hà Nội: Tôn Giáo, 2018.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông Điệp Laudato Si’. Hội Đồng GM Việt Nam – Bản dịch của Ủy ban Bác ái xã hội, 2015.

2. Sách và Tạp Chí

Allen, Ronald B. The Majesty of Man: The Dignity of Being Human. Portland: Multnomah, 1984.

Arndt, William  and Walter Bauer. A Greek-English Lexicon of the New Testament and other Early Christian Literature, 3rd ed. Chicago: University of Chicago Press, 2000.

Beeke, Joel R. and Paul M. Smalley. Reformed Systematic Theology, Volume 2: Man and Chris. Wheaton, Illinois: Crossway, 2020.

Berkhof, Louis. Systematic Theology. Grand Rapids: W. B. Eerdmans, 1996.

Berkouwer, G. C.. Man: The Image of God, Studies in Dogmatics. Grand Rapids: Eerdmans, 1962.

Boyd, Gregory A. and Paul R. Eddy. Across the Spectrum. Grand Rapids: Baker Academic, 2002.

Brien, Peter O’. The Letter to the Ephesians. PNTC; Grand Rapids: Eerdmans,1999.

Cảnh Tuyết. Tôi gánh tội Adam hay tôi đang là Adam. Đồng Nai: Đồng Nai, 2022.

Erickson, Millard J. Christian Theology, Second Edition. Grand Rapids: Baker Academic, 1998.

Gabriel, Peter, Đọc Giáo Phụ. Sài Gòn: Học Viện Đaminh, 2023.

Graham, Glenn. An Exegetical Summary of Ephesians. Dallas, TX: SIL International, 2008.

Halfmann, Janet. The New Catholic Encyclopedia, 2nd Edition. Washington D.C: Gale, 2003.

Hammett, John S.. “Human Nature” in A Theology for the Church. ed. Daniel L. Akin; Nashville: B&H Academic, 2007.

Herzfeld, Noreen. “Creating in our own Image: Artificial Intelligence and The Image of God.” Zygon 37, no. 2 June 2002.

Highfield, Ron. Beyond the Image of God Conundrum: A Relational View of Human Dignity.”Christian Studies no 24. January 1, 2010

Hoehner, Harold. Ephesians: An Exegetical Commentary. Grand Rapids: Baker Academic, 2002.

Hoekema, Anthony A.. Created in God’s Image. Grand Rapids: Eerdmans, 1986.

Kant, Immanuel. Grounding for the Metaphysics of Morals. trans. James W. Ellington; 3 ed; Indianapolis: Hackett, 1981.

Kilner, John F.. Dignity and Destiny: Humanity in the Image of God. Grand Rapids: Eerdmans, 2015.

King, Martha.  An Exegetical Summary of Colossians. Dallas, TX: SIL International, 2008.

Mai Quốc Phong. Nhân Học Thần Luận. Hà Nội: Tôn Giáo, 2023.

Marshall, I. Howard. The Gospel of Luke. New International Greek Testament Commentary. Grand Rapids, MI: Eerdmans, 1978.

Marshall, I. Howard.. The Epistles of John. NICNT; Grand Rapids: Eerdmans, 1978.

Mathews, Kenneth A.. Genesis. Nashville: Broadman & Holman, 1996.

McKenzie, Mary D.. The Image Of God: A Reflection Of Order And Suitability In Design. Virginia: Liberty University School Of Divinity, 2022.

Morris, Leon. The Gospel according to Matthew, The Pillar New Testament Commentary. Grand Rapids: Leicester, England: W.B. Eerdmans; Inter-Varsity Press, 1992.

Ngô Tường Dzũng. Tự Thuật. Hà Nội: Tôn Giáo, 1990.

Nolland, John. The Gospel of Matthew: A Commentary on the Greek Text, New International Greek Testament Commentary. Grand Rapids, MI; Carlisle: W.B. Eerdmans; Paternoster Press, 2005.

Taylor, Mark. 1 Corinthians, ed. E. Ray Clendenen, vol. 28, The New American Commentary. Nashville, TN: B&H, 2014.

Thánh Catarina Siêna. II dialogo della Divina provvindenza, 13. Roma, 1995.

Thomas Aquinas, Summa Theologica I, q.93, a.4.

Trần Ngọc Anh. Nhân Học Kitô Giáo. Đồng Nai: Đồng Nai, 2018.

Trần Ngọc Châu. Tổng Luận Thần Học Ia q. 14; a. 1. Tp.HCM: Phương Đông, 2017.

Vũ Ngọc Tứ. Mầu Nhiệm Sáng Tạo.  Hà Nội: Tôn Giáo, 2023.

3. Tài Liệu Internet

Kim Hương, “Câu nói hay về sự tự do đáng suy ngẫm.” https://voh.com.vn/song-dep/stt-tu-do-500972.html (truy cập 24/08/2024).

Linh Tiến Khải. “Chỉ nơi Thiên Chúa con người mọi thời đại mới tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình.” https://www.songtinmungtinhyeu.org/?open=contents&display=2&id=127 2 (truy cập 22/08/2024).

Nguyễn Bảo. “Tự Do Và Đam Mê Dục Vọng.” Thời sự Thần học - Số 42. https://www.thoisuthanhoc.net/2022/07/tu-do-va-am-me-duc-vong.html (truy cập 24/08/2024).

Phan Tấn Thành. “Giáo Hội Với Những Người Vô Thần, Vô Tín Ngưỡng.” Thời sự Thần học - Số 62. https://www.thoisuthanhoc.net/2019/07/giao-hoi-voi-nhung-nguoi-vo-than-vo-tin.html (truy cập 24/08/2024).

Tư Cù. “Con Người Với Các Loại ‘Văn Hóa’ Mới Trong Xã Hội Chúng Ta.” Thời sự Thần học. https://www.thoisuthanhoc.net/2013/02/con-nguoi-voi-cac-loai-van-hoa-moi.html (truy cập 24/08/2024).

 



[1] Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin - Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), số 355.

[2] Ibid., số 357.

[3] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Huấn Gaudete Et Exsultate (19/03/2018), người dịch Võ Văn Ngân (Hà Nội: Tôn Giáo, 2018), 76.

[4] Thánh Catarina Siêna, II dialogo della Divina provvindenza, 13 (Roma, 1995), 43.

[5] Mai Quốc Phong, Nhân Học Thần Luận (Hà Nội: Tôn Giáo, 2023), 236.

[6] Mathews A. Kenneth, Genesis 1–11:26 (Nashville: Broadman & Holman, 1996), 145.

[7] Cf. Cảnh Tuyết, Tôi gánh tội Adam hay tôi đang là Adam (Đồng Nai: Đồng Nai, 2022), 56.

[8] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo (Đồng Nai: Đồng Nai, 2018), 260.

[9] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 261.

[10] Ibid., 261.

[11] Mai Quốc Phong, Nhân Học Thần Luận, 237.

[12] Ibid., 243.

[13] Vũ Ngọc Tứ, Mầu Nhiệm Sáng Tạo (Hà Nội: Tôn Giáo, 2023), 148.

[14] Cảnh Tuyết, Tôi gánh tội Adam hay tôi đang là Adam, 50.

[15] Cf. Mark Taylor, 1 Corinthians, ed. E. Ray Clendenen, vol. 28, The New American Commentary (Nashville, TN: B&H, 2014), 408.

[16]  Mai Quốc Phong, Nhân Học Thần Luận, 262.

[17] Cf. William Arndt and Walter Bauer, A Greek-English Lexicon of the New Testament and other Early Christian Literature, 3rd ed (Chicago: University of Chicago Press, 2000), 281.

[18] John F. Kilner, Dignity and Destiny: Humanity in the Image of God (Grand Rapids: Eerdmans, 2015), 98-99.

[19] Cf. John Nolland, The Gospel of Matthew: A Commentary on the Greek Text, New International Greek Testament Commentary (Grand Rapids, MI; Carlisle: W.B. Eerdmans; Paternoster Press, 2005), 898.

[20] Cf. Leon Morris, The Gospel according to Matthew, The Pillar New Testament Commentary (Grand Rapids: Leicester, England: W.B. Eerdmans; Inter-Varsity Press, 1992), 480-481.

[21] Anthony A. Hoekema, Created in God’s Image (Grand Rapids: Eerdmans, 1986).

[22] Cf. Martha King, An Exegetical Summary of Colossians (Dallas, TX: SIL International, 2008), 245.

[23] John F. Kilner, Dignity and Destiny: Humanity in the Image of God, 253.

[24] Cf. John F. Kilner, Dignity and Destiny: Humanity in the Image of God, 253.

[25] Cf. Glenn Graham, An Exegetical Summary of Ephesians (Dallas, TX: SIL International, 2008), 374.

[26] Harold Hoehner, Ephesians: An Exegetical Commentary (Grand Rapids: Baker Academic, 2002), 613.

[27] Peter O’Brien, The Letter to the Ephesians (PNTC; Grand Rapids: Eerdmans,1999), 332.

[28] Cf. I. Howard Marshall, The Epistles of John (NICNT; Grand Rapids: Eerdmans, 1978), 173.

[29] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 267.

[30] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 267.

[31] Ibid., 270-271.

[32] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 271.

[33] Ibid., 273.

[34] Ibid., 274.

[35] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 279.

[36] Gabriel Peter, Đọc Giáo Phụ (Tp.HCM: Học Viện Đaminh, 2023), 274.

[37] Ibid., 279.

[38] Ibid., 254.

[39] Mary D. McKenzie, The Image of God: A Reflection of Order and Suitability in Design (Virginia: Liberty University School Of  Divinity, 2022), 30.

[40] Mary D. McKenzie, The Image of God: A Reflection of Order and Suitability in Design , 30.

[41] Cf. Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 285.

[42] Ibid.

[43] Gabriel Peter, Đọc Giáo Phụ, 310.

[44] Mary D. McKenzie, The Image of God: A Reflection of Order and Suitability in Design, 32.

[45] Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 290.

[46] Cf. Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 290.

[47] Ibid.

[48] Ibid., 292-293.

[49] Ibid., 296.

[50] Cf. Thomas Aquinas, Summa Theologica I, q.93, a.4

[51] Cf. Gregory A. Boyd and Paul R. Eddy, Across the Spectrum (Grand Rapids: Baker Academic, 2002), 76.

[52] Cf. John S. Hammett, “Human Nature” in A Theology for the Church, ed. Daniel L. Akin (Nashville: B&H Academic, 2007), 387.

[53] Gregory A. Boyd and Paul R. Eddy, Across the Spectrum, 76.

[54] Gregory A. Boyd and Paul R. Eddy, Across the Spectrum, 76.

[55] Louis Berkhof, Systematic Theology (Grand Rapids: W. B. Eerdmans, 1996), 202.

[56] Cf. Millard J. Erickson, Christian Theology, Second Edition, 521.

[57] Cf. Joel R. Beeke and Paul M. Smalley, Reformed Systematic Theology, Volume 2: Man and Christ (Wheaton, Illinois: Crossway, 2020), 238.

[58] Ron Highfield, “Beyond the "Image of God" Conundrum: A Relational View of Human Dignity, Christian Studies no 24 (January 1, 2010): 21-32.

[59] Cf. Immanuel Kant, Grounding for the Metaphysics of Morals, trans. James W. Ellington; 3 ed. (Indianapolis: Hackett, 1981).

[60] Cf. G. C. Berkouwer, Man: The Image of God, Studies in Dogmatics (Grand Rapids: Eerdmans, 1962), 236.

[61] Noreen Herzfeld, “Creating in our own Image: Artificial Intelligence and The Image of God,Zygon 37, no. 2 (June 2002): 303-316.

[62] Cf. Louis Berkhof, Systematic Theology, 207.

[63] Cf. Trần Ngọc Anh, Nhân Học Kitô Giáo, 262.

[64] Cf. Ronald B. Allen, The Majesty of Man: The Dignity of Being Human (Portland: Multnomah, 1984), 84.

[65] Cf. Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin - Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), số 357; 1702-1703.

[66] Tư Cù, “Con Người Với Các Loại ‘Văn Hóa’ Mới Trong Xã Hội Chúng Ta”, Thời sự Thần học, https://www.thoisuthanhoc.net/2013/02/con-nguoi-voi-cac-loai-van-hoa-moi.html (truy cập 24/08/2024).

[67] Janet Halfmann, The New Catholic Encyclopedia, 2nd Edition (Washington D.C: Gale, 2003), 182.

[68] Phan Tấn Thành, “Giáo Hội Với Những Người Vô Thần, Vô Tín Ngưỡng” Thời sự Thần học - Số 62,

https://www.thoisuthanhoc.net/2019/07/giao-hoi-voi-nhung-nguoi-vo-than-vo-tin.html (truy cập 24/08/2024).

[69] Nguyễn Bảo, “Tự Do Và Đam Mê Dục Vọng” Thời sự Thần học - Số 42,  https://www.thoisuthanhoc.net/2022/07/tu-do-va-am-me-duc-vong.html (truy cập 24/08/2024).

[70] Kim Hương, “Câu nói hay về sự tự do đáng suy ngẫm”, https://voh.com.vn/song-dep/stt-tu-do-500972.html (truy cập 24/08/2024).

[71] Cf. Janet Halfmann, The New Catholic Encyclopedia, 2nd Edition, 182.

[72] Linh Tiến Khải “Chỉ nơi Thiên Chúa con người mọi thời đại mới tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình”, https://www.songtinmungtinhyeu.org/?open=contents&display=2&id=1272 (truy cập 22/08/2024).

[73] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, bản dịch của Hội Đồng Giám mục Việt Nam, Ủy Ban Giáo lý Đức Tin (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), số 22.

[74] Cf. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1701.

[75] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 12-13 và Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 355.

[76] Cf. Trần Ngọc Châu, Tổng Luận Thần Học Ia q. 14; a. 1 (Tp.HCM: Phương Đông, 2017).

[77] Ngô Tường Dzũng, Tự Thuật (Hà Nội: Tôn Giáo, 1990), 80.

[78] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 12-22.

[79] Ibid., số 21.

[80] Ibid., số 18.

[81] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 18.

[82] Ibid., số 14-17.

[83] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 15.

[84] Ibid., số 16-17.

[85] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 17, 26.

[86] Ibid., số 16, 17.

[87] Ibid., số 17.

[88] Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 22.

[89] Ibid.

[90]  Cf. Công Đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 22.