Joseph Nguyễn Quang Bình STL-K8
 

Mục lục

I.     Dẫn nhập. 1

II.       Bàn tay Đức Giêsu trong Tin Mừng Mác-cô. 2

1.    Tác giả sách Tin Mừng Mác-cô. 2

2.    Biểu trưng các hoạt động của bàn tay Đức Giêsu. 3

2.1 Bàn tay Đức Giê-su cho thấy triều đại Thiên Chúa đã đến. 4

2.2 Bàn tay Đức Giê-su, bàn tay của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền  6

2.3 Bàn tay Đức Giê-su, bàn tay của vị Thượng Tế Tối Cao. 9

2.4 Bàn tay thanh sạch để bước vào Nước Thiên Chúa. 10

III.      Kết luận. 12

 

I.                Dẫn nhập

Bàn tay (יָד, hand, χείρ) là một bộ phận trong cơ thể con người. Danh từ này xuất hiện trong Tin Mừng Mác-cô là 37 lần, và 1600 lần xuất hiện trong toàn bộ Kinh Thánh. Chức năng “cầm lấy” (κρατέω) của bàn tay là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các sinh hoạt thể lý trong đời sống thường ngày của con người. Và nó được điều khiển bởi “cái bên trong”, cái từ con người xuất ra. Như Đức Giêsu nói trong Tin Mừng Mác-cô, “không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (7,15).

Chính vì thế, có thể nói mọi cử chỉ và hành động của bàn tay đều gắn liền và mang ý nghĩa biểu trưng tương ứng cho các hành vi bên trong. Ví dụ như trường hợp “vị thượng tế xé áo mình ra” muốn biểu lộ cho mọi người biết ông và nhóm của ông bị xúc phạm, bị báng bổ cực độ khi Đức Giêsu tự nhận mình là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (14,63). Hay như bàn tay của bà góa nghèo, bà đã bỏ “hai đồng tiền kẽm” cuối cùng của mình để nuôi sống bản thân dâng cúng cho đền thờ (dâng cho Chúa). Hành động cho đi hết những gì mình có có thể thấy được lòng quảng đại của bà và đồng thời một cách nào đó bày tỏ một tình yêu đáp trả, một niềm tín thác (12,41-44).

Ngoài ra, bàn tay cũng biểu trưng cho quyền lực của cá nhân hay của một tập thể nào đó[1]. Ý nghĩa đó cũng được Đức Giêsu sử dụng khi Ngài nói, Ngài sẽ bị nộp vào tay, vào một thế lực thế gian tội lỗi “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, vào tay phường tội lỗi” (9,31; 14,41). Bàn tay cũng mang ý nghĩa “sở hữu” [2], như trường hợp bọn tá điền bảo nhau giết đứa thừa tự đi để chiếm đoạt những sở hữu của anh ấy:

Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: “Chúng sẽ nể con ta.” Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.” Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. (12,6-8)

 Chiếm hữu là cùng đích của thế gian, nhằm tạo ra sức mạnh, tạo ra quyền lực. Vì vậy, để tranh giành chiếm hữu cho có nhiều tài sản nhằm thoả mãn được Danh-Lợi-Thú thì con người phải phát động chiến tranh để cướp lấy tài sản của người khác, hay của các quốc gia khác. Riêng với bàn tay của Đức Giêsu trong Tin Mừng Mác-cô, vừa là bàn tay của con người cũng có chức năng “cầm lấy” như bao người khác, nhưng bàn tay của Ngài siêu vượt lên trên mọi bàn tay, bàn tay của Ngài còn là bàn tay của Thiên Chúa. Qua các hoạt động nơi bàn tay Đức Giêsu trong Tin Mừng Mác-cô cho thấy:

·       Triều Đại Thiên Chúa đã đến.

·       Đức Giêsu là Đấng có uy quyền, là Con Thiên Chúa.

·       Đức Giê-su là Tư Tế Tối Cao luôn cầu bầu cho chúng ta.

·       Giữ cho tay sạch để vào Nước Thiên Chúa

II.               Bàn tay Đức Giêsu trong Tin Mừng Mác-cô

1.     Tác giả sách Tin Mừng Mác-cô

Bằng chứng nội tại để xác thực về tác giả chúng ta không thể biết rõ ai là tác giả viết quyển Tin Mừng thứ hai này vì không thấy đề cập đến trong bản văn Tin Mừng. Nhưng với các bằng chứng ngoại tại, chúng ta có thể biết tác giả chính là Mác-cô. Sử gia nổi tiếng vào thời Giáo Hội sơ khai Eusebius cho biết Mác-cô là người thông diễn của Thánh Phê-rô (ἑρμηνευτής / hermēneutēs) [3], Mác-cô đi theo thánh Phê-rô, và ngài đã ghi chép chính xác tất cả những gì ngài nhớ từ lời rao giảng của thánh Phê-rô. Sau này, người ta cũng tìm thấy trong những bản manuscripts xuất hiện sớm nhất với tiêu đề Tin Mừng theo Mác-cô “kata Markon”.

The heading "according to Mark" (kata Markon) appears in the earliest manuscripts we have of the second Gospel, which date back to the third century. According to ancient tradition, Mark was a disciple of Simon Peter who wrote his Gospel based on Peter's preaching in Rome. This tradition is attested by Papias (ca. AD 60-140), a third-generation Christian[4].

Vậy, tác giả Mác-cô là ai? Công vụ Tông đồ 12,12 viết “ông Phê-rô đi đến nhà bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô”. Điều đó cho thấy, ông rất gần gũi với Phê-rô, gần đến độ Phê-rô xem ông như là con của mình “Hội Thánh ở Ba-by-lon, cũng được chọn như anh em, và Mác-cô, con tôi, gửi lời chào anh em” (1 Pr 5,13). Ngoài ra, Mác-cô là người đã từng theo Phao-lô và Barnaba trong những hành trình truyền giáo “Còn ông Ba-na-ba và ông Sao-lô, sau khi đã chu toàn công việc phục vụ tại Giê-ru-sa-lem thì trở về, đem theo ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô” (Cv 12,25; 13,5). Mác-cô nguyên quán ở Giê-ru-sa-lem.

Như đã trình bày, Mác-cô đi theo sát Phê-rô, và ông đã ghi chép chính xác những lời giảng dạy của Phê-rô về Đức Giêsu. Vì thế, Tin Mừng theo Mác-cô (kata Markon) là Tin Mừng về Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Nguồn Tin Mừng Mác-cô được viết từ lời rao giảng của tông đồ trưởng Phê-rô (ἑρμηνευτής), và có thể thêm nguồn từ những chuyến truyền giáo chung với hai tông đồ Phao-lô và Ba-na-ba (Cv 12,25; 13,5).

2.     Biểu trưng các hoạt động của bàn tay Đức Giêsu

Như đã trình bày ở trên, hành động của bàn tay (cánh tay) mang tính biểu trưng cho “cái bên trong” bày tỏ tâm tư tình cảm, biểu lộ uy quyền, vị thế … của một ai đó. Mở đầu trang Tin Mừng của mình, Thánh Mác-cô viết: “Ἀρχὴ τοῦ εὐαγγελίου Ἰησοῦ Χριστοῦ[5] [υἱοῦ θεοῦ]” (1:1). Ngài viết Tin Mừng về Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Như thế, qua bàn tay (việc làm) của Đức Giêsu chúng ta sẽ thấy một Đức Giê-su rất “người”, Ngài cũng có đôi bàn tay như mọi người. Nhưng, bàn tay của Ngài vượt lên trên bàn tay của mọi người, bàn tay của Ngài là bàn tay độc nhất vô nhị (unique), bàn tay của Ngài là bàn tay của Con Thiên Chúa [υἱοῦ θεοῦ], bàn tay của Thiên Chúa.

2.1 Bàn tay Đức Giê-su cho thấy triều đại Thiên Chúa đã đến

Bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Đức Giêsu tiến lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài:

Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (1,29-31)

Quan sát các hành động từ bản văn trên, ta thấy Đức Giêsu tới (προσελθὼν[6]), một cách nào đó cho thấy Triều Đại Thiên Chúa đã tới “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (1,15a). Thế gian đang bệnh hoạn, đang nằm im là biểu trưng cho quyền lực thống trị của quỷ. Quỷ[7] ám, quỷ nhập làm cho con người sống không đúng với phẩm giá cao quý của mình, gây đau khổ cho cá nhân, gia đình và xã hội, đưa đến sự chết, và không một ai, một thế lực nào có thể tiêu diệt được chúng:

Một người trong đám đông trả lời: “Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu bị quỷ câm ám. Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống. Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi.” (9,17-18).

Triều đại của chúng vẫn ngang nhiên tồn tại và gây ra bao đau khổ, gây ra sự chết. Triều đại của chúng làm cho con người nằm im, khép kín, làm cho con người phải chết. Triều đại của chúng nay đã mãn khi bàn tay uy quyền của Đức Giêsu đã đến, đã trục xuất chúng, tiêu diệt vương quyền của chúng:

Thật vậy, Đức Giê-su đã bảo nó: “Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!” Người hỏi nó: “Tên ngươi là gì?” Nó thưa: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm.” Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy. Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. Đám thần ô uế nài xin Người rằng: “Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia.” Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo -chừng hai ngàn con- từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó. (5,8-13)[8].

Triều Đại Thiên Chúa cụ thể hơn đã tiến lại cầm lấy tay bà mẹ vợ Simon, tay người đang bệnh, đang bị nhiễm uế, đang nằm không làm gì được, không phục vụ được ai. Ngài cầm lấy (κρατήσας[9]), động từ “κρατήσας” được Tin Mừng Mác-cô diễn tả hành động cầm lấy của Đức Giê-su: Ngài cầm lấy tay người bệnh về mặt thể lý như cầm tay mẹ vợ Simon (1,29-31); Ngài cầm lấy tay đứa trẻ đã chết và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (5,41); và Ngài cầm lấy tay đứa trẻ bị quỷ ám và nâng em dậy (9,27). Nghĩa thiêng liêng cho thấy, Triều đại Đức Giêsu đã “tới” và “cầm lấy” bàn tay con người, để “nâng” con người đang bất động hoặc đã chết đứng “lên” (ἤγειρεν[10]).

Triều đại Đức Giê-su đến, cầm lấy tay, nâng con người lên để họ phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân (1,11). Triều đại Thiên Chúa giải thoát con người, muốn con người trỗi dậy “giơ bàn tay (mình) ra” giống như Ngài chạm đến với nhau (ἔκτεινον τὴν χεῖρα), để làm điều lành tránh điều dữ, để cứu mạng sống chứ không phải để giết đi (3,1-5).

Thật vậy, nếu con người tin và để cho Đức Giêsu cầm nắm lấy tay mình hoặc mình nắm lấy tay Ngài thì họ được biến đổi, được trỗi dậy, được sống lại trong một đời sống mới. Ngoài ra, chúng ta nếu có những người thân là những người đang bị sự tội làm cho tê liệt làm cho chết. Nếu chúng ta tin vào Đức Giêsu, chạy đến cầu xin Người thì người thân của chúng ta cũng sẽ được cứu, cũng sẽ được trỗi dậy và được sống như trường hợp con gái ông Gia-ia trưởng hội đường. Cô bé được trỗi dậy với niềm tin của người cha vào Đức Giêsu và cái nắm tay nâng dậy của Ngài, cô bé đã hoàn toàn được “trỗi dậy”:

Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn. (5,22-24.35-43).

Hành động nơi bàn tay của Đức Giê-su loan báo: “triều đại Thiên Chúa đã đến” (1,15). Đức Giê-su đến để nâng con người đứng lên, phục vụ cho Triều Đại Nước Thiên Chúa, dấn thân phục vụ cho tha nhân, họ không còn làm nô lệ cho triều đại của quỷ nữa (1,11; 9,27). Triều đại Nước Thiên Chúa chính là Đức Giêsu đã đến và ở giữa thế gian. Điều kiện như đã trình bày ở trên là cần phải tin vào Đức Giêsu, tin vào bàn tay uy quyền của Ngài, chỉ cần “sờ” lấy tay Ngài là được cứu, được chữa lành: “Đức Giê-su và các môn đệ đến Bết-xai-đa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin Đức Giê-su sờ (ἅψηται[11]) vào anh ta.” (8,22). Như anh mù, chỉ cần sờ lấy, nghĩa là tin vào Đức Giêsu, cộng tác với Ngài là được cứu, còn nếu không tin thì Ngài cũng không thể cứu giúp chúng ta: “Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin” (6,5-6). Tin vào bàn tay quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giê-su ta được biến đổi, được nên sạch, và đó cũng là điều kiện để chúng ta bước vào Nước của Ngài, Nước của Thiên Chúa.

2.2 Bàn tay Đức Giê-su, bàn tay của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền

2.2.1 Đấng có uy quyền

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, danh từ bàn tay cũng được ngụ ý, biểu thị cho cái bên trong con người, một quyền lực hay sức mạnh tự nơi người đó, hay tổ chức đó. Đệ Nhi Luật 2,15 viết: “bàn tay ĐỨC CHÚA cũng đè trên họ để loại họ ra khỏi trại, cho đến khi họ biến hết”. Nghĩa văn chương của câu này muốn nói “bàn tay Đức Chúa chống lại họ”. Bàn tay của Thiên Chúa trong Cựu Ước biểu trưng cho uy quyền, cho sức mạnh của Thiên Chúa, và đồng thời cũng biểu lộ sự bao bọc chở che, để bảo vệ “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con” בְּיָדְךָ֘ אַפְקִ֪יד ר֫וּחִ֥י פָּדִ֖יתָה אוֹתִ֥י יְהוָ֗ה אֵ֣ל אֱמֶֽת׃ (Tv 31,6).

Tin Mừng Mác-cô loan báo Đức Giêsu là Đấng có uy quyền vì Ngài là Con Thiên Chúa, Con Đấng Đáng Chúc Tụng. Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu (tay phải) của Thiên Chúa (16,19), và sau này đến ngày tận thếcác ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu (tay phải) Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (14,61-62). Đức Giêsu ngự bên hữu Đấng Toàn Năng cho thấy vị trí của “tay phải” trong Kinh Thánh muốn diễn tả chổ danh dự cao quý, vị trí của quyền lực: “Bên hữu (tay phải) Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.” (Tv 110,1; Mc 12,35). Vị trí quyền lực này cũng từng được hai con ông Dê-bê-đê đến xin Đức Giêsu bổ nhiệm cho “người ngồi bên tay phải, người ngồi bên tay trái khi Thầy được vinh quang” (10,35-40). Vị trí ngự bên hữu Thiên Chúa cho thấy, Đức Giêsu được xếp ngang bằng với Thiên Chúa với tư cách là Con Đấng Toàn Năng, và Ngài được Chúa Cha ban cho quyền năng để xét xử thế gian (12,35).

Như thế, bàn tay của Đức Giê-su là bàn tay của Đấng có uy quyền vì được nhận lãnh nhận từ Chúa Cha[12]. Đức Giê-su, “Tay Hữu của Thiên Chúa” đã đến thế gian, đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao dẹp tan mọi tội lỗi xấu xa, xóa bỏ thời kỳ thống trị của sự chết (Tv 117,16).

2.2.2     Là Con Thiên Chúa qua việc đặt tay

Biểu tượng của bàn tay phải, của bàn tay trái, hay của cả hai tay trong Kinh Thánh sẽ mang ý nghĩa thần học khác nhau. Biểu tượng rất quen thuộc thường thấy trong Kinh Thánh Cựu Ước là đặt tay trên đầu con vật để dâng lễ xá tội. Tội nhân sẽ đặt tay trên đầu con vật để chuyển tội lỗi của mình đáng lẽ phải chết qua con vật[13], và để con vật gánh thay, chết thay cho mình :

Ðức Chúa gọi ông Mô-sê, và từ Lều Hội Ngộ, Người phán với ông rằng : “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng : Khi một người trong các ngươi dâng lễ tiến lên Ðức Chúa, nếu là gia súc thì các ngươi phải dâng bò hay chiên dê làm lễ tiến. Nếu người ấy tiến dâng một con bò làm lễ toàn thiêu, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn ; người ấy sẽ tiến dâng nó ở cửa Lều Hội Ngộ, để được Ðức Chúa đoái nhận. Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và nó sẽ được đoái nhận để cử hành nghi thức xá tội cho người ấy (Lv 1,4).

Ngoài ra, đặt tay cũng mang ý nghĩa chúc phúc (blessing). Đặt tay trong lễ nghi tấn phong (rites of ordination[14]), trao quyền, trao trách nhiệm cho ai đó. Như Đức Chúa đã chỉ thị cho Mô-sê

“Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi mình, và ngươi sẽ đặt tay trên nó. Ngươi sẽ cho nó đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. Ngươi sẽ truyền lệnh cho nó trước mắt chúng” (Ds 27,18-20).

Truyền thống đặt tay vẫn tiếp tục diễn ra vào thời Tân Ước, và cũng mang nội dung ý nghĩa như trong Cựu Ước. Trong Tin Mừng Mác-cô có tổng cộng 6 lần nói đến hành động Đức Giêsu đặt tay.

·       Trường hợp thứ nhất, Bàn tay Đức Giêsu mang ý nghĩa cứu sống: Ngài đặt tay hồi sinh con gái ông Gia-ia (5,23).

·       Kế đến, Bàn tay chữa lành của Đức Giêsu: Ngài đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành ở quê nhà (6,5). Sau đó, đặt tay chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng khi đi qua ngã Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê (7,32). Ngài đặt tay chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (8,22-26).

·       Bàn tay Đức Giêsu, bàn tay chúc lành: Ngài đặt tay chúc lành trẻ em (10,13-16).

·       Cuối cùng, Bàn Tay các môn đệ là bàn tay của Đức Giêsu: Ngài đã trao quyền đặt tay của Ngài lại cho các tông đồ: “Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (16,14-18).

Cựu Ước và Tân Ước đều quan niệm cho rằng bệnh tật là do tội[15] hoặc do Thiên Chúa phạt: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9,2). Cho nên, để được xá tội họ phải cần phải có một con vật để nhận tội thay, phải cần đến tư tế lẫn nghi lễ với lời cầu xin lên Thiên Chúa Đấng duy nhất có quyền tha tội “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” (2,7). Nay tất cả các loại bệnh và tật nguyền trong dân biểu trưng cho tất cả các tội, các loại ô uế, và do quỷ nhập đều được Đức Giêsu đặt tay cứu chữa và nâng họ lên mà không cần đến hy lễ, nghi lễ, tư tế và lời cầu xin. Điều đó cho thấy, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa[16] có thẩm quyền ngang bằng với Thiên Chúa cho nên Ngài không cần lời cầu xin (2,10). Ngài là Chiên Thiên Chúa gánh tội thay cho mọi người (Ga 1,29). Ngài là Tư Tế Tối Cao (x. mục 2.5). Ngài có đủ thẩm quyền trao ban và ủy thác lại cho các tông đồ quyền của mình trước khi về trời. Nay, cánh tay của các tông đồ và của các đấng kế vị các ngài (bàn tay của Giáo Hội), cũng chính là cánh tay của Đức Giê-su tiếp tục ban muôn ơn lành, và cứu chữa thế gian (16,14-18).

2.3 Bàn tay Đức Giê-su, bàn tay của vị Thượng Tế Tối Cao  

Hai tay giang rộng và đưa lên cao là một hành động thờ phượng, thành tâm dâng lên Thiên Chúa: “Khi con hướng về nơi cực thánh giơ đôi tay cầu cứu van nài, xin Ngài nghe tiếng con khấn nguyện.” (Tv 28,2), và truyền thống này cũng được tiếp tục duy trì trong Tân Ước “Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2,8). Bàn tay của Đức Giêsu đã “cầm lấy” bánh, ngước mắt lên trời, dâng lời “chúc tụng”, rồi “bẻ ra”, “trao cho” các môn đệ, để các ông dọn ra cho dân chúng:

Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!” Các ông nói với Người: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” Người bảo các ông: “Anh em có mấy chiếc bánh? Đi coi xem!” Khi biết rồi, các ông thưa: “Có năm chiếc bánh và hai con cá.” Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông. (6,37-44)[17].

Đức Giê-su là Đấng được chọn (cầm lấy) từ đời đời, Ngài được Chúa Cha chúc phúc (chúc tụng) xác nhận ngay ở sông Jordan, Ngài đã bị bẻ ra trên thập giá, và đã trao hiến thân mình cho nhân loại[18]. Đôi bàn tay của Đức Giê-su đã dang rộng trên thập giá làm Con Chiên gánh tội trần gian (Ga 1,29. 36), là bánh trường sinh, là thần lương nuôi dưỡng mọi tín hữu (Ga 6,35). Chúng ta có Đức Giêsu vừa là Con Chiên Thiên Chúa, và vừa là vị Thượng Tế Đời Đời luôn giang tay chúc phúc và cầu khẩn cho chúng ta.

2.4 Bàn tay thanh sạch để bước vào Nước Thiên Chúa

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, bàn tay thanh sạch biểu trưng cho sự chính trực về mặt luân lý của con người: “Lạy CHÚA, con rửa tay nói lên lòng vô tội và đi vòng quanh bàn thờ Chúa” (Tv 26,6), và chỉ có những kẻ “tay sạch” lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối mới được lên núi CHÚA, mới được ở trong đền thánh của Người:

Ai được lên núi CHÚA? Ai được ở trong đền thánh của Người?

Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối.

Người ấy sẽ được CHÚA ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. (Tv 24,3-4).

Vào thời Tân Ước, những người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều tuân giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận, và họ thường bắt lỗi Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài về việc giữ luật thanh sạch này. Họ bắt bẻ Đức Giêsu và các các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa:

Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (7,1-6).

Đức Giêsu đã trả lại (kiện toàn) đúng chức năng của “cái tay”, nó chỉ là khí cụ được điều khiển bởi “cái bên trong”, và ô uế không thể phát sinh từ những “cái bên ngoài” được:

Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Ai có tai nghe thì nghe!”  Khi Đức Giê-su đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ ngôn ấy. Người nói với các ông: “Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao? Anh em không hiểu sao? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?” Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch. Người nói: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (7,14-23).

Cho nên, một người có tâm hồn thanh sạch (cái bên trong, lòng thanh) thì sẽ hành động tốt, và sẽ làm những việc tốt đẹp. Nhưng ngược lại, những người tuy luôn tỏ ra sạch sẽ bên ngoài, nhưng tâm hồn thì chưa chắc sạch: nào là xấu xa, ác độc thì chỉ là những người đạo đức giả “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (7,6). Chính vì thế, Đức Giêsu cũng xác quyết điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai có “tay sạch”, đúng nghĩa là “những ai có lòng thanh” mà thôi, và Ngài khuyên các môn đệ giữ tâm hồn trong sạch, tránh làm gương mù gương xấu cho anh em sa ngã để vào cõi sống, vào vương quốc của Ngài:

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt. (9,42-43)

Chúng ta muốn trở nên sạch phải cậy nhờ đến “Đấng thuần khiết thanh sạch” là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Chỉ cần “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào chúng ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” là chúng ta được sạch” (1,40-41).

III.             Kết luận

Tin Mừng Mác-cô loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần ἤγγικεν (The kingdom of God is at hand)[19]. Những ai tin và chạm đến bàn tay uy quyền của Đức Giêsu Ki-tô, Con Thiên Chúa thì sẽ được cứu chữa, được trỗi dậy và sống trong đời sống mới trong Đức Giêsu Ki-tô. Đời sống mới trong Đức Giê-su Ki-tô là phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Chúng ta thật hạnh phúc vì có Con Thiên Chúa làm người và luôn đồng hành với chúng ta, nắm lấy tay chúng tay. Ngài cũng là vị Thượng Tế Tối Cao biết cảm thương với những yếu hèn của chúng ta, và luôn ngự bên hữu Thiên Chúa, luôn giang tay cầu bầu cho chúng ta (Hr 2, 17; 3, 1; 4, 14-15; 5, 1-10; 7).

Bàn tay uy quyền của Đức Giê-su vẫn hiện diện với chúng ta qua bàn tay của Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục ban phát ân sủng, luôn giang tay để chúng ta có thể chạm lấy, chạm lấy để chúng ta được chữa lành. Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhớ đến Ngài mỗi khi tay của chúng ta “cầm lấy” bánh là cầm lấy chính “Thân Thể Ngài – Body of Christ”, và sống như những người được chọn (được cầm lấy), như những người được chúc phúc, những người được bẻ ra, và được trao ban cho thế gian, để chữa lành và cứu chữa thế gian (3,1-5).


 

DANH MỤC THAM KHẢO

Arthur, Buttrick George. The Interpreter’s Dictionary of the Bible. New York: Abingdon Press, Volume II, 1962.

Cranfield C.E.B. The Gospel According to Saint Mark. United Kingdom: Cambridge, 2005.

Donahue, John R. SJ, Daniel J. Harrington SJ. The Gospel of Mark. Collegeville Minnesota: Sacra Pagina Series, Volume 2, 2022.

Mary, Healy. The Gospel of Mark. Michigan: Baker Academic, 2008.

Stein, Robert H. Mark. Michigan: Baker Academic, 2008.



[1] Ông bà xưa có câu “cờ đến tay ai người ấy phất”.

[2] George Arthur Buttrick, The Interpreter’s Dictionary of the Bible (New York: Abingdon Press, Volume II, 1962), 520.

[3] Ibid, 3.

- The Anti-Marcionite Prologue (ca. 150–180). “Mark related, who was called ‘Stumpfinger’. He was the interpreter of Peter. After Peter’s death the same man wrote this gospel in the regions of Italy” (Grant 1946: 92).

- Irenaeus (ca. 170). “But after their departure [ἔξοδον, exodon] Mark, the disciple and interpreter [ἑρμηνευτής, hermēneutēs] of Peter, himself also handed over to us, in writing, the things preached by Peter” (Haer. 3.1.1; C. Black 1994: 99–100).

- Clement of Alexandria (ca. 180). “When Peter had publicly preached the word at Rome, and by the Spirit had proclaimed the Gospel, that those present, who were many, exhorted Mark, as one who had followed him for a long time and remembered what had been spoken, to make a record of what was said; and that he did this, and distributed the Gospel.”

[4] Mary Healy. The Gospel of Mark (Michigan: Baker Academic, 2008), 18.

[5] Mary Healy. The Gospel of Mark (Michigan: Baker Academic, 2008), 30. “Messiah comes from Hebrew mashiah, "anointed:' which in Greek is christos, Christ. In ancient Israel, priests, prophets, and kings were installed in office by being anointed with oil (Exod 29:7; 1 Sam 10:1; 1 Kings 19:16). and the king was often referred to as "the Lord's anointed" (1 Sam 24:7; see Ps 2:2), When the kingship came to an end and Israel was conquered by a succession of foreign rulers, a prophetic expectation grew that God would send a new "anointed one" descended from King David, who would revive the royal dynasty and restore freedom, justice, peace, and prosperity to Israel (see Ps 89:21 - 38; Isa 61 :1-3).”

[6] προσελθὼν verb participle aorist active nominative masculine singular from προσέρχομαι.

[7][7] Mary Healy. The Gospel of Mark (Michigan: Baker Academic, 2008), 47. "Demon" hay "unclean spirit" là thụ tạo vô hình (invisible), siêu nhiên (supernatural beings) tàn phá sự sống con người và đôi khi có thể kiểm soát được hành vi và chiếm hữu con người (5,2-5).

[8] Xem thêm ở: 3, 15; 6,7.13; 7,24-30; 9,14-29

[9] κρατήσας verb participle aorist active nominative masculine singular from κρατέω.

[10] ἤγειρεν verb indicative aorist active 3rd person singular from ἐγείρω.

[11]ἅψηται” He might touch.

[12] “Bên hữu Cha, Con lên ngự trị, và mọi loài Cha đặt làm dưới bệ chân Con”

[13] Robert H. Stein, Mark (Michigan: Baker Academic, 2008), 521.

[14] Ibid, 521

[15] Robert H. Stein, Mark (Michigan: Baker Academic, 2008), 105. “Since leprosy was often regarded as a punishment for sin (Num. 12:1–15; 2 Kings 5:25–27; 2 Chron 26:16–21), such social ostracism was seen as having both prophylactic and moral grounds.”

[16] Robert H. Stein, Mark (Michigan: Baker Academic, 2008), 41. “In Mark the title “Son of God” reveals Jesus’s unique and unparalleled relationship with God. It is the favorite title of Mark for identifying Jesus (1:11, 24; 3:11 [cf. 1:34]; 5:7; 9:7; 12:6; 13:32; 14:61–62; 15:39), and when Mark was written, it conveyed to the Christian community the idea of both preexistence and deity (cf. Phil. 2:6–8; Col. 1:15–20).”

[17] (xem thêm 8,6; 14,22-23).

[18] Henri Nouwen, Becoming Food for The World, (henrinouwen.org).

[19]ἤγγικεν draw near to, approach, be at hand. Bản dịch tiếng Anh: "This is the time of fulfillment. The kingdom of God is at hand. Repent, and believe in the gospel." (Mk. 1:15 NAB)