Gioan Baotixita Nguyễn Duy Thái STL-K9
Cuộc đời của thánh Augustino là một
cuộc đời tìm kiếm, tìm kiếm bằng chính kinh nghiệm bản thân với một thái độ cởi
mở và chân thành. Điều đó đã giúp cho ngài đến được với nguồn chân lý đích thực
là chính Thiên Chúa. Có thể nói, toàn bộ tư tưởng của ngài được tóm tắt trong
cuốn Tự Thuật với những suy tư sâu sắc
và sự cảm nghiệm sâu xa trong từng biến cố. Tư tưởng của ngài đã củng cố và
phát triển nền triết học Kitô giáo, từ đó nó đã ảnh hưởng sâu rộng tới những nền
triết học khác. Sự xuất hiện của Kitô giáo đánh dấu một bước ngoặt triệt để
trong tư duy, làm xoay chuyển đường hướng lịch sử triết học. Theo đó, Thiên
Chúa đã sáng tạo thế giới này từ hư vô. Người không giống như các vị thần trong
thần thoại Hy-Lạp, nhưng Người có một nhân cách đặc biệt và có mối tương quan mật
thiết, cá vị với từng cá nhân. Mối tương quan này không làm mất đi cái riêng của
mỗi người, nhưng lại làm cho cá nhân thêm phong phú hơn khi mà trong cái riêng
luôn có cái chung. Tất cả điều đó sẽ được cảm nhận bằng một đời sống nội tâm
sâu sắc khi con người sống một đời sống cởi mở và chân thành, với tha nhân, với
Thiên Chúa.
1.
Thế giới được Thiên Chúa sáng tạo từ hư vô
Ý tưởng Thiên Chúa sáng tạo từ hư
vô là một nét căn bản trong triết học Kitô giáo. Plato cho rằng thế giới này không đơn thuần
là sản phẩm trí tuệ của con người; thế giới các ý tưởng là thực tại có thật,
trường tồn, vĩnh cửu.[1]
Cho nên, theo Plato thế giới là kết quả của việc Thượng Đế phối hợp các hình thức
và các khoảng chứa vốn tồn tại độc lập. Plotínus cho thế giới là sự mở rộng của
chính Thiên Chúa, nhưng Augustine khẳng định: Thế giới được tạo dựng bởi Thiên
Chúa từ hư vô[2],
đây là nguồn chân lý vĩnh cửu, tất yếu và con người có thể nhận thức được nguồn
chân lý tối cao này.
Augustino căn cứ trên quan niệm
Thiên Chúa Yếu Tính để tìm hiểu vấn đề sáng thế.[3] Bởi
vì mọi vật trong thế giới luôn biến đổi nên nó không thể tự hữu. Chính Thiên
Chúa đã từ hư vô tác tạo mọi vật. Thiên Chúa tạo ra thế giới, nên Thiên Chúa là
nguồn chân lý cao nhất tất yếu và vĩnh cửu, nhưng Thiên Chúa không đồng nhất với
thế giới mà siêu việt, vượt ra ngoài thế giới. Quyền năng sáng tạo của Thiên
Chúa được Augustino trình bày trong cuốn tự thuật như sau:
Chúa yêu con là gì? Con đã hỏi trái đất và nó đã thưa: tôi không phải là
Chúa của anh; và tất cả những gì sống trên trái đất đều thú nhận như vậy. Con
đã hỏi biển cả và các vực sâu; và các động vật bò lan trong đó, và chúng đã trả
lời: “Chúng tôi không phải là Chúa của anh, anh hãy tìm bên trên chúng tôi”.
Con đã hỏi các luồng gió, thì cả bầu không khí với các dân cư của nó đã trả lời
con: “Anaximenes lầm, tôi không phải là Chúa”. Con đã hỏi trời, mặt trời, mặt
trăng, các tinh tú, chúng đã trả lời con: “Chúng tôi cũng không phải là Chúa,
mà anh tìm kiếm”. Và con đã nói với các sự vật ở chung quanh các cửa giác quan
của con rằng: “Hãy nói cho tôi về Chúa tôi; vì các ngươi không phải là Chúa,
các ngươi hãy nói cho tôi biết một chút về Người”. Và chúng đã lớn tiếng kêu rằng:
“Chính Người đã tạo dựng chúng tôi”.[4]
Augustine quan tâm tới bản chất và cách hiện hữu của
Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chân Lý nên phần nào Thiên Chúa ở trong con người.
Nhưng vì Thiên Chúa là vĩnh cửu nên Người cũng siêu vượt con người. Vũ trụ là
phản ánh cái hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa. Tất cả sự hiện hữu của sự vật
đều đến từ Chúa, vì Ngài là nguồn mạch mọi sự hiện hữu. Thiên Chúa không ở
trong không gian và thời gian, là cái hiện hữu thuần túy cao nhất, là chân lý
tuyệt đối và thực tại vĩnh cửu.
Do đó, Augustino khẳng định: Thiên Chúa là đấng tạo dựng
thế giới và là thực tại tối cao con người cần hướng đến. Chỉ một mình Thiên
Chúa là hằng hữu. Mọi vật là sản phẩm của hành vi tự do của Thiên Chúa. Mỗi tạo
vật thể hiện một nét đẹp riêng của Thiên Chúa, vì vậy trong mỗi sự vật đều ẩn
tàng sự hiện diện của Chúa, đó là những dấu chỉ, là những ký hiệu để con người
nhận biết Thiên Chúa. Con người có thể nhận thức được nguồn chân lý vĩnh cửu
này thông qua sự mạc khải, nguồn ánh sáng của Thiên Chúa, đây là sự soi sáng
phán đoán của chúng ta, nhờ đó chúng ta có thể nhận ra rằng những ý niệm nào chứa
đựng chân lý tất yếu và vĩnh cửu.
2. Quan niệm Thiên Chúa như một nhân cách
Thời cổ đại
chưa hề biết tới một thần linh duy nhất và có nhân cách theo đúng nghĩa của từ
này. Các thần linh của thần thoại Hy-Lạp không phải là thần linh có nhân cách
vì đặc điểm thần thánh duy nhất của những vị thần này là sự bất tử; ra đời, chiến
đấu với nhau, sinh đẻ, thù hằn nhau, v.v. giống như những con người bình thường
nhất. Chỉ có Kinh Thánh mới đưa ra được quan niệm về Thiên Chúa như một thần
linh duy nhất và độc đáo, nhờ có tính thần thánh của mình mà vượt hoàn toàn lên
trên con người và tự nhiên.
Thiên Chúa, theo quan niệm của người Sê-mít, có tính cách
cá vị sống động, có quyết định, có tự do và có mối tương quan với con người một
cách cá vị.[5] Do đó, con người là thụ tạo của Thiên Chúa
và được kêu gọi sống trong những mối tương quan ngôi vị. Con người sống trong
thế giới không phải đi tìm hiểu quy luật của thần minh biểu lộ qua các định luật
thiên nhiên, nhưng là hướng mở với một tha thể. Vì thế, yếu tố quan trọng nhất
để sống khôn ngoan và công chính trong đời sống con người không phải là sự khôn
ngoan của lý trí, mà chính là mối tương quan có tính cách ngôi vị, đặc biệt, giữa
con người với Thiên Chúa.
Thiên Chúa mà Augustino cảm nhận được đó là một Thiên
Chúa hiện diện cách cụ thể, hữu hình trong Đức Giê-su Kitô, vị Thiên Chúa làm
người, và Ngài vẫn luôn hiện diện rất gần gũi trong Giáo Hội của Đức Kitô.[6] Thiên Chúa siêu việt đồng thời cũng là một
Thiên Chúa can dự vào lịch sử nhân loại. Ngài không phải là một Thiên Chúa xa lạ
như tinh thần Rô-ma, hay một Thiên Chúa thống trị theo tinh thần Hy-Lạp. Thiên
Chúa theo tinh thần Sê-mít sống chung, sống cùng với con người, chìm ngập trong
cái bản chất người.
Nét riêng biệt của niềm tin Ki-tô giáo là vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng
làm cho những chân lý mạc khải của Thiên Chúa trở thành chân lý của cuộc sống
thực. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong dòng lịch sử ơn Cứu Độ làm cho “Thiên
Chúa trọn vẹn là Thiên Chúa” và “con người trọn vẹn là con người”; làm cho chân
lý vừa luôn vĩnh cửu, vừa luôn có một “sử tính”; làm cho sự sống của Thiên Chúa
“nhập thể” trọn vẹn vào cuộc sống con người, và nỗ lực của con người trọn vẹn
có thể trở nên siêu nhiên.[7]
Thiên Chúa nhập
thể để chia sẻ với thân phận người với nhân loại, để nâng con người lên. Ngài đồng
hành với mỗi người, với từng người một để trong cái riêng của cá nhân, nó triển
nở những cái chung. Cái chung đó chính là cái bản chất người. Để mỗi người đều
thực sự là người theo đúng ý định sáng tạo của Thiên Chúa.
3. Phát triển cái chung trong cái riêng
Cái xương sống của lịch sử triết Tây là vấn đề biến chuyển
và trường tồn; cá nhân và tập thể. Trước đây, mỗi khi đề cao cái tập thể thì loại
bỏ cái cá nhân, đề cao cái cá nhân thì loại bỏ cái tập thể. Tuy nhiên, mỗi người
đều có “chất người” bên trong và đòi hỏi những người khác tôn trọng như cái phổ
quát. Cho nên, điều cần thiết là phải hòa hợp với nhau trong cái riêng. Cá nhân
vẫn trọn vẹn khi nó triển khai tập thể tính trong cái độc đáo của riêng nó. Để
trong cái riêng tư của mỗi người có thể triển nở những cái chung. Như trong Nho
Giáo, Đức Khổng Tử nói rằng: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất
hòa”.[8] Nghĩa là người quân tử hòa với mọi người mà
không về hùa với ai, tiểu nhân thì về hùa với mọi người mà không hòa với ai. Quan
điểm của Kinh Thánh nhìn con người như một toàn thể, thể hiện ra trong từng
khía cạnh, nhưng vẫn thuộc về một toàn thể. Cái cá nhân phải được phát triển,
nhất là phát triển những cái chung trong đường nét của cái riêng.
Vấn đề con người làm cho Augustino quan tâm không phải từ
góc độ “con người nói chung”, mà từ góc độ “cái tôi” con người, cá nhân cụ thể
trong tính riêng biệt và độc đáo của nó. Theo Augustino, chính bản thân tôi trở
thành vấn đề lớn nhất và quan tâm nhất. Việc nhận thức “cái tôi” của mình được
đặc trưng bởi tính cởi mở và tính chân thực, càng sống thật con người càng dễ
nhận ra cái tôi.[9]
Augustino coi
việc đi sâu vào bản thân mình là tiến tới Chúa.[10] Nói cách khác, con người nhận thức mình càng
rõ thì càng tiến đến Chúa gần hơn. Suy gẫm về những gì đã trải qua, nói ra những
cảm giác và cảm xúc của mình, dù là trong ý nghĩ, đó là con đường tự nhận thức
cơ bản. Từ đây, triết học Tây Phương chuyển sang một hướng khác với tư tưởng
mang tính vũ trụ trung tâm luận của triết học Hy-Lạp.
4. Siêu hình học về thế giới nội tâm
Con người chỉ là một bộ phận của vũ trụ bên cạnh những bộ
phận khác nhau của vũ trụ. Do đó, sự kiện có tính cách quyết định trong nền tảng
triết học Tây Phương là việc con người ý thức về mình, ý thức về sự hiện diện của
mình trong vũ trụ một cách đặc biệt; con người tách biệt khỏi sự duy nhất của
vũ trụ. Chính sự ý thức này đã giúp cho con người có trong mình một khát vọng tự
do mãnh liệt. Điều này đã tạo nên một bước tiến vượt bậc và có tính cách quyết
định trong tư tưởng triết học Tây Phương. Augustino nói trong cuốn Tự Thuật: “Phần đông người ta thường hướng
ngoại đi tìm thưởng lãm những đồi núi cao, những làn sóng vỗ mạnh của đại
dương, hay dòng sông bao la, bát ngát của biển cả và sự xoay vần của các tinh
tú; còn về chính họ, thì họ lại không màng chi tới”.[11]
Triết học là
một giá trị “nhân bản” mà đời sống Đức tin đích thực phải giúp cho tăng triển
hơn chứ không phải xóa bỏ đi cách dễ dàng.[12] Bởi đó, đóng góp to lớn của Kitô giáo qua
thánh Augustino là cái siêu hình học về thế giới nội tâm mà Hy-Lạp còn thiếu.
Qua kinh nghiệm của mình, Augustino cho thấy trong con
người mình có sự đối nghịch giữa ý muốn tốt và khuynh hướng xấu chống lại nó.
Hơn thế nữa, ngài còn cảm thấy hai thứ đó giằng xé trong tâm hồn, ngài viết
trong cuốn Tự Thuật: “Tại sao lại có
sự xâu xé đến mức này? Tinh thần ra lệnh cho thể xác thì lập tức nó được tuân lệnh
ngay; nhưng có khi tinh thần ra lệnh, nó lại gặp sức kháng cự… Muốn một nửa, rồi
không muốn một nửa, đó không phải là một sự kiện kỳ quái, mà đã là một căn bệnh
của linh hồn rồi”.[13] Chính khi cảm thấy bất lực như vậy, Augustino đã tìm thấy một
nguồn ánh sáng khác, nguồn ánh sáng đó đến từ Thiên Chúa, soi tỏ và giải thoát
con người khỏi xiềng xích của nhục dục.[14] Nhờ đó, Thiên Chúa ban cho con người một sự
bình an và hạnh phúc mà chỉ những ai yêu mến Chúa với một đời sống nội tâm sâu
sắc thì mới cảm nhận được. Ngài miêu tả điều này trong cuốn Tự Thuật như sau:
Khi yêu Chúa, con cũng yêu một ánh sáng, một âm thanh, một mùi thơm, một của
ăn, và một sự ôm ấp: đó là ánh sáng, âm thanh, mùi thơm, của ăn và sự ôm ấp của
con người nội tâm trong con; tại nơi đây, có một ánh sáng chiếu soi linh hồn
con, mà không bị không gian nào giới hạn; tại nơi đây, có những âm điệu vang
lên, mà không bị thời gian nào cướp lấy; tại nơi đây, có những mùi thơm xông tỏa,
mà không bị luồng gió nào đánh tan; tại nơi đây, người ta thưởng thức một của
ăn mà không tính ham mê nào làm suy giảm; tại nơi đây, có những ôm ấp mà không
sự chán nản nào muốn thôi. Đó là những cái con yêu, khi con yêu Chúa.[15]
Việc phát hiện ra tính thực tại, tính được đem lại của “cái tôi” hoàn toàn ở
bên trong kinh nghiệm nội tâm trực tiếp là cái phân biệt triệt để quan niệm của
Augustino về con người với quan niệm triết học cổ đại. Nó chỉ ra rằng, nếu chỉ
nghiên cứu con người từ bên ngoài tất yếu sẽ làm chết cứng những quá trình tinh
thần và tâm hồn. Mà chính chúng lại là cái chủ yếu tạo thành con người, bản chất
con người. Augustino gọi tổng thể những quá trình ấy là “con người bên trong”.[16] Con người bên trong bộc lộ ra ở những phút
giây hồi tâm hay tâm trí sáng láng gắn liền với những hoàn cảnh sống nào đó làm
cho ta bị chấn động đến tận cùng tâm hồn, đụng chạm tới những lợi ích quan trọng
nhất, khi chúng ta dũng cảm và trung thực xem xét mình đã xử sự như thế nào
trong cảnh khủng hoảng.
5. Kết luận
Những tư tưởng
từ kinh nghiệm phong phú của thánh Augustino trong quá trình đi tìm chân lý, đặc
biệt là sự tinh tế và chân thật nơi hành trình nội tâm của ngài đã có một ảnh
hưởng rất lớn trong nền triết học Kitô giáo cũng như đường hướng lịch sử của
nhân loại. Tư tưởng Kitô giáo khẳng định chỉ có ân huệ của Thiên Chúa mới làm
cho vũ trụ hiện hữu và làm cho con người được nên chính mình, nghĩa là được cứu
độ. Nếu như Aristotle cho rằng người ta được hạnh phúc khi họ hoàn thành chức
năng của mình bằng sự trung dung[17], thì Agustine cho rằng hạnh phúc đòi người
ta vượt lên khỏi tự nhiên để đạt tới siêu nhiên. Agustine viết: “lạy Chúa, Chúa
đã dựng chúng con nên cho Chúa, vì thế tâm hồn chúng con sẽ không được nghỉ
ngơi cho tới khi nó tìm được sự nghỉ ngơi trong Ngài”[18]. Như vậy Thiên Chúa là nguồn chân lý vĩnh cửu,
nguồn thực tại tối cao tạo dựng nên con người với mục đích lôi cuốn con người
trở về với nguồn hạnh phúc vĩnh cửu, đó chính là Thiên Chúa.
Tư tưởng của Augustino đã ảnh hưởng trên hầu hết các vấn
đề thần học trong Giáo Hội, ngay cả đối với Alberto và Thomas.[19] Đặc biệt, ngài đã tạo nên một
tầm ảnh hưởng đến lịch sử triết học với một đường hướng riêng biệt: về sự can dự
trực tiếp của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, về một Thiên Chúa có nhân
cách, và Ngài tương quan một cách cá vị với từng người. Từ đó, Ngài giúp con
người vượt qua những trở ngại của đam mê, của xác thịt để hướng tới “đô thị của
Thiên Chúa”. Đô thị này vững bền, trường cửu và vượt lên trên “đô thị trần thế”.
[1] Vĩnh An, Hỏi Đáp Triết Học, Tập III, Triết Học
Tây Phương, (NXB Trẻ: TP. HCM, 2006), Tr. 26.
[2] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, Thời
Trung Cổ, Tr. 19.
[3] Nguyễn Trọng Viễn, Sđd,
Tr. 52.
[4] Tự Thuật, Quyển X, 9.
[5] Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh
– Nguyễn Đắc Lý – Lê Kim Bình, Triết Học
Đại Cương, (NXB Thời Đại: TP. HCM, 2013), Tr. 217.
[6] Nguyễn Trọng Viễn, Sđd,
Tr. 50.
[7] Nguyễn Trọng Viễn, Sđd, Phần
dẫn nhập, Tr. viii.
[8] Khổng Tử, Luận Ngữ, (NXB Thuận Hóa Huế: Huế,
1995), Dịch giả Đoàn Trung Còn, Tử Lộ, 23.
[9] X. Trần Thị Giồng, Tôi Không Đi Qua Tôi Để Lại Gì, (NXB
Phương Đông: TP. HCM, 2013), Tr. 79-85.
[10] Đỗ Minh Hợp – Nguyễn
Thanh – Nguyễn Đắc Lý – Lê Kim Bình, Sđd, Tr. 232.
[11] Tự Thuật, Quyển X.
[12] x. Xc Vatican II, MV
s.21c; s.34 c, được trích dẫn trong Nguyễn Trọng Viễn, Sđd, Phần dẫn nhập, Tr. vii.
[13] Tự Thuật, Quyển VIII, 9.
[14] x. Tự Thuật, Quyển VIII,
13.
[15] Tự Thuật, Quyển X.
[16] Đỗ Minh Hợp – Nguyễn
Thanh – Nguyễn Đắc Lý – Lê Kim Bình, Sđd, Tr. 234.
[17] Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, (NXB
Lao Động: Hà Nội, 2004), Đỗ Văn Thuấn – Lưu Văn Hy dịch, Tr. 87.
[18] Tự Thuật, Quyển I, 1.
[19] Nguyễn Trọng Viễn, Sđd,
Tr. 43.