Mục Lục
I. Dẫn
nhập
II. Nội
dung
1. Ngôn sứ Giôna là ai?
2. Tác phẩm
3. Phân
tích bản văn
3.1. Giôna – ngôn sứ bướng bỉnh chống lại lệnh của
Thiên Chúa (Gn 1, 1-2)
3.2. Giôna được cứu và cầu nguyện (Gn 2, 1-11)
3.3.
Ninivê – một dân biết vâng lời, sám hối và được
tha thứ (Gn 3, 4-10)
3.4.
Giôna – ngôn sứ ích kỉ, bực mình khi Chúa tha
tội cho người tội lỗi
III. Chút suy tư: Dung mạo Giôna ngày xưa và hôm nay
IV. Kết luận
I. Dẫn nhập
Mỗi ngôn sứ đều có vai trò quan trọng, là
trung tâm và giữ nhịp cho những truyền thống tốt đẹp của Israel, cho Kitô giáo
và cho cả nhân loại. Chính trong những giờ phút khó khăn nhất của Israel, các
ngôn sứ đã khẳng khái lèo lái con thuyền
dân tộc trên một dòng nước ngày càng tinh ròng hơn. Quả thật, sẽ không
khoa trương khi có học giả đã từng coi
các ngôn sứ như những bậc vĩ nhân đã gầy dựng một trong ba “nền văn minh thiên
mệnh” của thế giới: Nếu Hy Lạp
hãnh diện vì biết đề cao lý trí, Rôma tự hào vì đã sáng tạo nên nền pháp trị,
thì Israel với các ngôn sứ đã khai nguyên ra ý thức về công lý.[1] Sự hấp dẫn đó càng khiến ngươi viết
tìm hiểu sâu hơn về các ngôn sứ. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài viết, người
viết xin tìm hiểu chân dung vị ngôn sứ Giôna cứng đầu,
bất tuân phục, ích kỷ và dễ giận dỗi. Để đi sâu vào chân
dung vị ngôn sứ này, trước hết bài viết tìm hiểu đôi nét về tác giả, tác phẩm.
Thứ đến, bài viết sẽ phân tích, chú giải một số câu trong bản văn. Sau cùng là
một chút suy tư với phần áp dụng thần học trong đời sống Kitô giáo hiện nay.
II. Nội dung
1. Ngôn
sứ Giôna là ai?
Trước tiên, người viết xin trình
bày đôi nét về hạn từ “ngôn sứ.” Trong nguyên bản Thánh Kinh, danh xưng này được
gọi là Nabi. Theo Lm. Inhaxiô Nguyễn
Ngọc Rao, từ Nabi có nhiều nghĩa như:
người phát ngôn, người được đề cử để nói, người được Chúa gọi, “người nói thay Thiên Chúa” hay “người được
nghe Thiên Chúa nói”. Danh từ nabi dịch
sang tiếng Hy Lạp trong bản LXX là prophetes
(“προφήτης”), nghĩa là người nói thay Thiên Chúa.[2] Trong Cựu ước, ngoài danh từ “nabi”
còn các từ khác để chỉ những người như: người minh kiến, nghĩa là thông suốt bằng
giác quan và linh cảm; người của Thiên Chúa.[3] Thật
vậy, Ngôn sứ là một người nói, làm hay viết dưới tác động đặc biệt của Thiên
Chúa, để mặc khải cho mọi người biết những ý định của Ngài.[4]
Giôna là tên một ngôn sứ con ông
Amíttai, quê ở Gát Khêphe, quãng 5 cây số về phía Đông Bắc Nadarét, vùng ranh giới phía đông chi tộc
Dơvulun (Gs 18,13). Ông sống vào thời vua Giarópam II (783-743 tCn) của vương
quốc Israel[5],
ông phụ giúp vua trong việc làm cho vương quốc miền Bắc trở nên hùng mạnh, thịnh
vượng (2V 14,25). Giôna là một chính khách danh tiếng.
2. Tác
phẩm
Sách
Giôna được xếp vào bộ “12 ngôn sứ nhỏ”.[6] Lời rao giảng của vị ngôn sứ được kể lại trong sách được
xem là ngắn gọn nhất “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ” (Gn 3,4).[7] Ấy vậy, từ vua cho đến dân thành Ninivê đều hoán cải và Chúa
đã tha thứ. Sách cũng cho thấy những tình tiết lạ thường, không có vị ngôn sứ
nào lại cố tình đi “trốn khỏi nhan Đức Chúa” (Gn 1,3), cũng chẳng có vị ngôn sứ
nào lại nổi giận khi Chúa tha thứ cho người tội lỗi (Gn 4,1) như ngôn sứ Giôna.
Chính điều này làm nên nét độc đáo, thú vị và hấp dẫn cho tác phẩm.
Giôna
là một trình thuật thuộc ngôn sứ. Tất cả các trình thuật trong Kinh Thánh đều
mang tính giáo huấn ở một mức độ nào đó, nhưng trong trường hợp của sách Giôna,
tác giả đã cẩn thận định hình lại câu chuyện bằng cách chọn lọc, tóm tắt và
thậm chí sắp xếp lại theo trình tự thời gian[8]. Truyện Giôna gồm bốn chương, được chia thành hai phần,
mỗi phần đều bắt đầu bằng lệnh truyền của Thiên Chúa cho Giôna: (Gn 1, 1-3) và
(Gn 3,1-4)[9].
Chương
1: Thiên Chúa truyền cho Giôna đi đến Ninivê, báo cho dân chúng biết họ sắp
bị tiêu diệt: “còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ” (Gn 3,4).
Giôna chỗi dậy, thay vì đi Ninivê, ông trốn đi Tácsít. Ngay khi Giôna bỏ trốn,
Chúa liền tung ra một cơn gió và một trận bão lớn ngoài khơi. Sau khi đã kêu
cầu Đức Chúa, người ta ném Giôna xuống biển tức thì sóng gió liền yên.
Chương
2: Đức Chúa khiến một con cá voi nuốt sống ông, và ông nằm trong bụng cá ba
ngày đêm, không ngớt cầu nguyện cùng Chúa. Vì thế ông được cá thả vào bờ bình
an[10].
Chương
3: Thiên Chúa nhắc lại lệnh truyền đi giảng tại Ninivê. Lần này ông vâng
lời và thi hành lệnh của Chúa. Dân Ninivê nghe lời, sám hối, cải tà quy chính
và được Thiên Chúa tha phạt.
Chương
4: Giôna không vui vì sự việc này. Ông còn bực mình vì cây thầu dầu rợp
bóng mát cho ông nghỉ ngơi bị héo đi. Thiên Chúa nhân dịp này đã giáo huấn ông,
làm cho ông hiểu về lòng lân tuất của Chúa đối với mọi người nhất là người tội
lỗi.
3. Phân tích bản văn
3.1. Giôna – ngôn sứ bướng bỉnh chống lại lệnh của Thiên
Chúa (Gn 1, 1-2)
Cuốn sách mở ra với lời trao sứ mạng
của Thiên Chúa cho Giôna: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê” (1,2), một thành đầy
tội lỗi, gian ác (Gn 1,2b). Điều này cho thấy Giôna thực sự là một ngôn sứ.[11] Tại sao Thiên Chúa chọn thành này, bản văn không cho
biết lí do cách minh nhiên, nhưng Átsua không chỉ là dân ngoại, mà còn là kẻ
thù của Israen. Theo lẽ thường, Ninivê không thể được hưởng ơn cứu độ. Vậy mà
Giôna được gởi đến thành này để kêu gọi người ta sám hối, hưởng ơn tha thứ,
thật là một nghịch lí.[12] Thiên Chúa rất rõ ràng trong mệnh lệnh của Ngài. Ngài
bảo Giôna đứng dậy và đi. Ông đứng dậy nhưng là để trốn đi Tácsít, tránh nhan
Đức Chúa (1,3). Quyết định này cho thấy sự bất tuân, ngang bướng, cứng đầu của
Giôna trước lệnh Chúa. “Tránh nhan Đức
Chúa” có sự mâu thuẫn giữa lời tuyên xưng đức tin (x. c.9) và hành động của
Giôna: ông kính sợ Đức Chúa nhưng lại tránh nhan Ngài; ông biết Thiên Chúa là
Đấng làm ra biển khơi, đất liền mà ông lại trốn đi bằng đường biển. Nhưng hiệu
quả gián tiếp ở đây là nhờ ông mà các thủy thủ biết về Đức Chúa. Họ trở nên sợ
hãi hơn khi biết rõ nguồn gốc của cơn bão (c.10a). Lòng tin của họ tiến thêm
một bước khi chứng kiến việc ném Giôna xuống biển (c.15), tức thì biển lặng yên
(c.15b). Họ dâng hy lễ, khấn hứa với Người (c.16). Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa
mới cứu con người khỏi cơn nguy khốn, khỏi cái chết như Giôna đã hát lên: “Đức
Chúa mới là Đấng ban ơn cứu độ” (Gn 2,10).
3.2.
Giôna được cứu và cầu nguyện (Gn 2, 1-11)
Câu chuyện không kết thúc với cái chết
của vị ngôn sứ. Thiên Chúa sai gió cản đường ông, bây giờ Ngài lại sai một con
cá đến cứu ông: “Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1) rồi sau đó
“Đức Chúa bảo con cá mửa ông ra trên đất liền” (Gn 2,11). Ba ngày ba đêm có
nghĩa gì? Gn 3,3 cho biết ba ngày là khoảng thời gian cần để đi ngang qua thành
phố Ninivê. Giuse
giam giữ các anh mình ba ngày (x. St 42,17). Ba ngày là mô hình về cái chết,
táng xác và sống lại của Chúa Giêsu (x. Mt 12,40). Vì thế “ba ngày ba đêm” được
xem như khoảng thời gian cần thiết để làm một điều gì đó.[13] Tại
sao Giôna lại được Chúa cứu?. Thật vậy, chỉ khi bị “vực thẳm bao bọc”, con
người mới nhớ đến Đấng Tạo Hóa. Giôna lúc này cũng vậy, chỉ khi nằm trong cảnh
ngặt nghèo, “mạng sống con nay hầu tàn”, ông mới nhớ đến Chúa. Ông van xin, cầu
nguyện liên lỉ và Chúa đã đáp lời, lúc này ta mới thấy ông cầu nguyện (Gn 2,2).
Quả thật, phận người thì hữu hạn, chỉ có Chúa mới làm chủ sự sống (Gn 2,7), là
“Đấng ban ơn cứu độ” cho con người (Gn 2,10).
3.3.
Ninivê – một dân biết vâng lời, sám hối và
được tha thứ (Gn 3, 4-10)
Trái với lần trước, lần này Giôna vâng lời Chúa (Gn
3,1-2) và đi Ninivê. Có phải ông hoàn toàn hối cải và hết lòng với sứ vụ không?
Chắc hẳn là không. Bởi vì ông biết rằng, ông không thể trốn khỏi nhan Chúa. Vì thế ông đã đi rao giảng,“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ”(c.4).
Sứ điệp Chúa trao cho Giôna thật ngắn gọn, cho biết “kỳ hạn” là “bốn mươi ngày”
và hình phạt là “phá đổ”, gợi lại chuyện Xơđôm và Gômôra (x.St 18,16-33;
19,24-25), tuy nhiên thái độ của ông không giống thái độ của Ápraham[14].
Giôna chỉ “hô” một lần duy nhất: Ninivê sẽ bị phá đổ trong bốn mươi ngày nữa. Và
“Con người hối cải bỏ điều gian ác thì Thiên Chúa cũng hối tiếc về tai họa
người đã ngăm đe” (c.10). Điều mà Ge 2,12-14 rao giảng như một niềm hy vọng
thì ở đây thành sự thật, Thiên Chúa muốn phá đổ sự ác chứ không muốn phá đổ
thành phố hay tiêu diệt con người[15].
Thật vậy, chính nhờ “đức tin” mà dân Ninivê được Chúa tha thứ. Thiết nghĩ, sống
gian ác và nhận tai họa luôn đi liền với nhau. Nếu người ta từ bỏ sự gian ác
thì tai họa sẽ không còn.
3.4.
Giôna – ngôn sứ ích kỉ, bực mình khi Chúa tha
tội cho người tội lỗi
Thật là một nghịch lý, một vị ngôn sứ hoàn thành sứ mạng lẽ ra
phải vui mừng, đàng này khi thấy dân Ninivê hối cải và được Chúa tha thứ thì
ông lại bực tức: “Giôna bực mình, bực lắm và ông nổi giận” (c.1), muốn
chết đi cho rồi (Gn 4,3), lời này của Giôna khiến chúng ta nhớ đến lời của Êlia
đã thưa với Chúa (x.1V 18,20-40); Giôna còn giận dỗi, thanh minh cho việc ông
bỏ trốn đi Tácsít (Gn 4,2). Chính vì lý do muốn kẻ tội lỗi hối cải để được sống
mà Thiên Chúa mời gọi Giôna suy nghĩ về thái độ của ông: “Ngươi nổi giận như thế có lý không:”(c.4). Như thế, đối lập với
thái độ “bực mình, nổi giận” của Giôna (c.1), Thiên Chúa tỏ ra nhẹ nhàng để
giúp Giôna hối cải, bỏ ý riêng mà theo ý Chúa vì lúc này ông mang trong mình
nhiều điều ngược với ý muốn và bản chất của Thiên Chúa[16].
Nếu Giôna biện hộ cho sự nổi giận là vì ông thương hại cây thầu dầu bị chết,
tại sao ông không nhận ra Thiên Chúa, Đấng từ bi và nhân hậu và không phá hủy
Ninivê, trong đó có bao nhiêu là người lớn, trẻ nhỏ và cả súc vật? Thực chất,
sâu xa hơn, điều tác giả muốn nói đến chính là lòng thương xót và ơn cứu độ phổ
quát của Thiên Chúa được dành cho cả dân ngoại. Thiên Chúa muốn họ hối cải để
được sống.
III. Chút
suy tư: Dung mạo Giôna ngày xưa và hôm
nay
Câu chuyện về Giôna khi xưa
tuy đã khép lại nhưng những bài học mà Giôna để lại vẫn luôn sống động trong
tâm thức của con người thời nay. Tác giả sách Giôna mời gọi mỗi tín hữu nhìn
lại vai trò ngôn sứ của mình. Bởi lẽ có nguy cơ chúng ta cũng đang là ngôn sứ
giống như Giôna. Như Giôna hãnh diện vì là người Hípri khi giới thiệu với các
thủy thủ (x.Gn 1,9), nhiều người cũng hãnh diện vì là Kitô hữu. Như Giôna biết
rõ về Thiên Chúa (x.Gn 4,2), nhiều người cũng hãnh diện vì được học hỏi và biết
nhiều về Ngài. Nhưng như Giôna ích kỉ, hẹp hòi, không mở lòng ra với dân ngoại,
với kẻ thù; thì vẫn còn đó bóng dáng người Kitô hữu có nguy cơ sống khép kín,
thiếu đối thoại, thiếu cảm thông với người xung quanh. Nếu chỉ cầu mong và lo
sao cho bản thân mình được yên ổn mà không bận tâm đến việc truyền giáo, ra đi
loan truyền lòng thương xót của Thiên Chúa, thì có lẽ người ta đang giống Giôna
trốn tránh trách nhiệm Chúa trao. Bởi vì hôm nay cũng còn rất nhiều “thành
Ninivê” đang cần được nghe Lời Chúa, được Chúa xót thương.
IV. Kết luận
Khi đọc sách Giôna, ai
cũng nhận ra rằng, Thiên Chúa mong Giôna tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa,
hoán cải, từ bỏ ý riêng mà theo ý Chúa. Là người Kitô hữu, tôi cũng mang sứ
mạng trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa cho thế giới hôm nay. Nhưng muốn đem Tin
Mừng đến cho mọi người, trước hết tôi cần có lòng trắc ẩn, biết chạnh lòng
thương, đồng cảm với anh chị em mình, đặc biệt là đối với những anh chị em
ngoại giáo, biết nói lời đem lại niềm hy vọng. Bên cạnh đó, tôi cũng cần học sự
khiêm nhường, tín thác, cậy dựa vào Chúa, vì chỉ có Chúa mới là chủ sự sống, là
chân lý, là niềm hy vọng cho con người. Chắc hẳn ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng
luôn mong mỏi người Kitô hữu, tin và theo Ngài, cùng thực hiện sứ vụ của Ngài
(Mt 9,13). Noi gương Chúa Giêsu, tôi cũng học theo Ngài, mang lấy bận tâm và
nỗi ưu tư của Ngài. Hơn thế nữa, với Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, Đức Thánh
Cha mời gọi tôi cũng như mọi Kitô hữu, hãy “đi ra vùng ngoại biên”. Những nơi đó, có thể sự gian ác chưa bằng dân
Ninivê, nhưng chắc chắn, nơi đó không thiếu những con người đau khổ, nghèo đói,
bất hạnh… đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Những nơi đó, biết đâu dân ngoại cũng đang sẵn sàng hối cải và tin
vào Chúa như dân thành Ninivê xưa, nếu Lời Chúa được đến với họ. Ước mong sao
mỗi Kitô hữu biết can đảm ra khỏi sự quen thuộc, an toàn hằng ngày để đến những
vùng ngoại biên để cho dung mạo Đức Kitô được tỏ lộ.
[1] x. Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc
Rao, O.P, Các sách ngôn sứ, (TPHCM: 2006), 6.
[2] x. Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, O.P, Các sách ngôn sứ, 9-10.
[3] Trần Phúc Nhân, Tìm Hiểu Cựu ước (
1995), tr.160.
[4] x. John A. Hardon, S.J, Từ điển Công giáo phổ thông (TPHCM: Phương Đông, 2008), 409.
[5] Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, O.P, Các
sách ngôn sứ, 307.
[6] Fx Vũ Phan Long OFM, Các
sách Ngôn sứ, (Đồng Nai: 2021), 203.
[7] Nguyễn Văn Hội, Giôna – vị Ngôn sứ khác người, (Tôn giáo: Hà Nội,
2021), 11.
[8] David A.Hubbard, Glenn
W. barker, World Biblical Commentary, Hosea-Joanh, Publisher, Waco,
Texas, p.583.
[9] Kinh Thánh, Bản dịch và chú thích do nhóm Phiên Dịch Các Giờ
Kinh Phụng Vụ, Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
[10] Theo sách GKPV, có hai
xu hướng giải thích nguồn gốc ở chương này. Một xu hướng cho rằng một người
khác đã góp nhặt lời các thánh vịnh đặt vào đây. Một xu hướng cho là của cùng một
tác giả vì bản văn thật sự có giá trị thi ca và phù hợp với tình huống và với
diễn biến của câu chuyện.
[11] Nguyễn Văn Hội, Giôna - Vị Ngôn Sứ Khác Người, (Hà Nội: Tôn
Giáo, 2021), 35.
[12] Nguyễn Văn Hội, Giôna - Vị Ngôn Sứ Khác Người, 38.
[13] Nguyễn Văn Hội, Giôna - Vị Ngôn Sứ Khác Người, 63.
[14] Kinh Thánh, Bản dịch của CGKPV, (Hà
Nội: Tôn Giáo, 2011).
[15] Kinh Thánh, Bản dịch của CGKPV, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011).
[16] Kinh Thánh, Bản dịch của CGKPV, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011).
1.
Kinh
Thánh. Bản dịch và chú thích do nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Hà
Nội: Tôn Giáo, 2011.
2.
Tông
Huấn “Niềm Vui Tin Mừng” – Evangelii Gaudium (EG), 2013.
3.
World Biblical Commentary, Hosea-Joanh,
David A.Hubbard, Glenn W. barker, p.431, 1987, Word Books, Publisher, Waco,
Texas.
4.
Lm.
Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, O.P. Các sách ngôn sứ. Thành Phố Hồ Chí Minh,
2006.
5.
John A.
Hardon, S.J. Từ điển Công giáo phổ thông. Tp. HCM: phương Đông, 2008.
6.
Fx Vũ
Phan Long OFM. Các sách Ngôn sứ. Đồng Nai: 2021.
7.
Phạm Hữu Quang.
Dẫn Nhập Thánh Kinh-Văn Bản, Địa Lý, Khảo Cổ, Thần Học. Hà Nội: Tôn Giáo,
2018.
8.
Nguyễn Văn Hội. Giôna – vị Ngôn sứ khác người.
Tôn giáo: Hà Nội, 2021), 11.
9.
Trần Phúc Nhân. Tìm Hiểu Cựu ước. Lưu hành
nội bộ: 1995.
10.
https://www.nguoitinhuu.org/chiase/NgHongGiao/gionabuongbinh.html. Truy cập ngày
28/4/2023.