I. Dẫn nhập
Biến cố phục sinh của Đức Kitô là chóp đỉnh của
toàn bộ đức tin Công giáo. Biến cố này khiến cho người Kitô hữu hy vọng về cuộc
sống trường sinh, hạnh phúc, viên mãn, và tròn đầy. Thật thế, người Kitô hữu
không mong đợi những điều phi lý, ảo huyền, hay giả tưởng, nhưng là mong chờ
các thực tại cánh chung. Các thực tại đó thôi thúc người Kitô hữu mong chờ đến
mức cháy bỏng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Tuy nhiên trước khi đến với cuộc
sống vĩnh sinh, người Kitô hữu đang phải đối mặt với các sự kiện hiện tại, các
chiều kích của hiện sinh. Niềm hy vọng vào thực tại mai sau đang vấp phải sự chống
đối với thực tại cảm nghiệm. Tức là đau khổ, rên xiết, bất công, dập nát, đang
giày vò người Kitô hữu ở đời này.[1] Tuy
nhiên, sự chất vấn của các thực tại đời này không làm mất đi ý nghĩa về thực tại
cánh chung, trái lại khiến cho các thực tại cánh chung đời sau lộ ra ở đời này.
Bởi lẽ, Đức Kitô nhập thể đã đem vô hạn vào hữu hạn, đem siêu nhiên vào tự
nhiên, đem thần linh vào phàm nhân. Hơn nữa sau biến cố Vượt Qua và phục sinh Đức
Kitô đã đem vật chất lên trời cao. Từ nền tảng đó, người Kitô hữu xác tín về niềm
hy vọng thân xác của mình sẽ sống lại và trở nên như thân xác của Đức Kitô phục
sinh. Như vậy, bài viết sẽ khai triển ba nội dung liên quan đến ý nghĩa đời sống
Kitô hữu dưới ánh sáng phục sinh của Đức Giêsu, dưới lăng kính của Cánh Chung Học.
Đầu tiên, nói về sự sống tình yêu trong nước Thiên Chúa, là thực tại mà Đức
Giêsu đã rao giảng để mọi người có thể chạm tới, hy vọng tới hầu đạt được ơn cứu
độ. Thứ hai, nói về tình yêu là sự sống, sống là tình yêu, đời sống người Kitô
hữu được bao bọc trọn vẹn bởi tình yêu của Thiên Chúa. Thứ ba, đích đến của con
người là kết hiệp với Thiên Chúa, đây chính là ý nghĩa của Phục Sinh, phàm nhân
được ở trong thế giới của thần linh, bởi lẽ “Thiên Chúa đã làm người để con người
làm Chúa”.[2]
II. Sự Sống
Tình Yêu Trong Nước Thiên Chúa
Khởi đi từ biến cố phục sinh của Đức Giêsu,
người Kitô hữu quan niệm cánh chung không đơn giản là bàn luận về điểm kết thúc
đời này là sự chết, mà đúng hơn là quan niệm về sự khởi đầu, là sự sống vĩnh cửu,
hướng đến thực tại sau khi chết, là Nước Thiên Chúa. Nhưng Nước Thiên Chúa là
thực tại “đã rồi” mà “vẫn chưa”. Nghĩa là Nước Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời,
nhưng vẫn chưa hoàn toàn được tỏ lộ. Từ đây người Kitô hữu suy tư và khảo sát
chiều kích quan trọng của đời sống, đó là chiều kích về tương lai, chiều kích của
hy vọng. Chiều kích đó được suy tư dựa trên tình yêu trong nước Thiên Chúa, và
tình yêu đó bao bọc niềm tin Kitô hữu để có thể đạt tới điểm hoàn tất, đạt tới
hạnh phúc viên mãn với Thiên Chúa chính là ở trong nước của Ngài. Điều này đã
được khẳng định trong thư Hípri: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng,
là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hr 11, 1). Như vậy, kinh nghiệm
hy vọng trong đời sống của người Kitô hữu, được quy chiếu vào Đức Giêsu Kitô
như là khuôn mẫu, chuẩn mực từ Thiên Chúa được ban cho tất cả nhân loại. Do đó,
bất cứ ai muốn được trở nên như Đức Giêsu, được sống lại như Ngài, và được ở
trong vương quốc của Thiên Chúa, thì phải dùng tình yêu để đáp lại tình yêu. Vì
trong toàn bộ đời sống cũng như sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, Đức Giêsu chỉ
nhấn mạnh đến tình yêu. Nhờ tình yêu mới có niềm tin, có niềm tin mới được cứu
và đạt được sự sống trong Vương Quốc Thiên Chúa. (x. Ga 13-19).
III. Tình Yêu
là Sự Sống, Sự Sống là Tình Yêu
Thực tại được mong đợi nhất của người Kitô hữu
là được ở trong Nước Thiên Chúa, là nơi mà vương quyền Tình yêu Thiên Chúa bao
trùm và che chở. Tình yêu đó làm cho mọi hiện hữu trong vương quốc đạt được sự
sống vĩnh cửu. Như thế, có thể nói tình yêu trong Nước Thiên Chúa là sự sống và
sự sống là tình yêu. Nhưng tình yêu mang đến sự sống đó không phải là điều xa lạ
với con người, vì tình yêu trường sinh đã đến với thế giới hiện tại. Tình yêu
đó làm cho tâm hồn con người trở nên quảng đại, bao dung, và giải thoát con người
khỏi mọi tình trạng tội lỗi, vong thân, tha hoá, thù hận, bóc lột, bất công, tù
ngục, ích kỷ. Người Kitô hữu trong thế giới hiện tại được mời gọi khai mở tình
yêu và đáp trả tình yêu bằng việc hoán cải từ bỏ nếp sống cũ, và hướng lòng về
Thiên Chúa là nơi mà tình yêu không phân biệt, loại trừ, kỳ thị bất cứ ai. Và
đó là kiểu mẫu, cách thức, thái độ sống mới, mời gọi mọi Kitô hữu đảm nhận và
thực thi. Vì thế, Nước Thiên Chúa mang tình yêu phổ quát, siêu việt và bao trùm
tất cả nhân loại. Tình yêu của Thiên Chúa đã hoà giải muôn loài thụ tạo trong Đức
Ki-tô (x. Ep 5, 6; Cl 4, 5). Do đó, những ai đặt niềm tin nơi Đức Kitô phục
sinh, sẽ chẳng hề thất vọng. Vì Đức Kitô đã hoàn tất kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa “một lần cho tất cả” (x. Hr 9, 26) trong Mầu nhiệm Vượt Qua - Phục Sinh của
Người. Mầu nhiệm này trở thành nền tảng hy vọng của người Kitô hữu về các thực
tại cánh chung: “Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới được
hưởng vinh quang dành cho Người sao?” (x. Lc 24, 26-27, 44-45).
Như thế, khi người Kitô hữu đảm nhận lối sống
mới, tức là để cho tình yêu của Đức Kitô giải thoát và đặt mình vào trong ân sủng
của Thiên Chúa (Rm 4, 25). Và để trở nên như Ðức Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi
chết, chúng ta cũng được sống đời sống mới” (Rm 6, 4). Cuối cùng, sự phục sinh
của Ðức Kitô, là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của người Kitô hữu mai
sau: “Ðức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn
thu, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người, nhờ liên đới
với Ðức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (x. 1Cr 15, 20-22).[3] Và
trong lúc chờ đợi sự hoàn tất đó, Ðức Kitô Phục Sinh sống trong lòng mọi tín hữu.
Như vậy, khi người tín hữu đặt tình yêu và niềm
tin của mình vào thực tại tối hậu phổ quát là biến cố hoàn tất lịch sử cứu độ,
sự “Phục Sinh Kẻ Chết”, cuộc “Thẩm Phán Chung” và “Thiên Đàng – Vương Quốc
Thiên Chúa”, cõi vĩnh hằng trong “Trời Mới, Đất Mới” – “Cuộc canh tân hoàn vũ”
biến cố tình yêu này mang đến niềm hy vọng sự sống cho người Ki-tô hữu.[4] Thì
niềm hy vọng cánh chung được Đức Kitô bảo đảm và che chở. Hơn nữa, niềm hy vọng
cánh chung soi chiếu cho thực tại về thể lý con người vẫn phải mang là cái chết,
là sự chia lìa với cuộc sống hiện tại. Từ đây, cái chết đối với người Kitô hữu
được đặt trong chân trời đức tin và siêu việt, cái chết trở nên cánh cửa để bước
vào thế giới vĩnh sinh, vô hạn là nơi mà Thiên Chúa và con người ở với nhau và ở
trong nhau.
IV. Kết Hiệp với
Thiên Chúa, Ý nghĩa của Phục Sinh
Khi người Kitô hữu đặt niềm tin và tình yêu
nơi biến cố phục sinh, đồng nghĩa với việc thiết lập tương quan chủ vị với
Thiên Chúa. Khi đó, những hứa hẹn mà “Thiên Chúa đã và đang chuẩn bị cho những
ai yêu mến Người” được thực hiện (x. 1Cr 2, 7; Rm 8, 28). Thiên Chúa cho họ
thông dự vào tình yêu sung mãn phong nhiêu và sự sống thần linh vĩnh hằng của
Ngài, để cuối cùng Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong mọi sự” (x. 1Cr 15, 28). Nhờ
kết hiệp với Thiên Chúa, con người đạt được những điều mình hy vọng, và sức mạnh
để nhận ra các nghịch lý, những thách đố nơi cuộc sống nhân thế chỉ là sự mong
manh vô thường, và chóng qua.
Nhờ sự kết hiệp với Đức Kitô Phục sinh mà
tương lai của người Kitô hữu được mở ra tới tuyệt đối của Thiên Chúa, và đưa
con người tới nguồn mạch sự sống vĩnh cửu. Từ đó Phục sinh đem đến cho con người
nụ cười chiến thắng, trên tất cả mọi khổ đau chết chóc. Vì vậy, con người được
hoàn tất lịch sử trong vinh quang chứ không phải kết thúc trong đau khổ. Như thế,
Mầu nhiệm phục sinh là nền tảng cho tất cả niềm hy vọng Kitô giáo. Đức Kitô sống
lại từ cõi chết, Người còn mang thương tích, không phải vì không thể chữa lành,
nhưng vì Người mang trên mình cuộc khải hoàn vinh thắng trên chính khổ đau đó
cho đến muôn đời.[5] Do
đó, khi đối diện với cái chết, người Kitô hữu hiểu theo bối cảnh của mầu nhiệm
vượt qua như là những hạt lúa: “gieo xuống thì hư nát” nhưng “trỗi dậy thì bất
diệt”, “gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang”. Chính trong Đức
Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại khải hoàn, Thiên Chúa sẽ cho con người được
chỗi dậy. Và mọi người sẽ được phục sinh cùng với Đức Kitô, Đấng Cánh Chung,
Con yêu dấu của Thiên Chúa (x. Ep 2, 6).
V.
Kết luận
Như vậy, biến cố phục sinh của Đức Kitô khiến
cho những người tin vào Ngài thấy sự hiện hữu trường tồn, điều này như mỏ neo vững
bền cho cuộc sống mong manh vô thường của phận người. Đồng thời, Đức Giêsu Phục
sinh đã thắp lên sự sống tình yêu trong nước Thiên Chúa trong lòng mỗi người, tạo
cho mọi người phương thế để đạt được ơn cứu độ. Và trong sự sống của Đức Kitô
người tín hữu không cô đơn trên hành trình đến cõi vĩnh hằng, nhưng được bao bọc
trọn vẹn bởi tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ đó, con người cảm nghiệm được sự kết
hiệp với Thiên Chúa ở trong thế giới của thần linh ngay khi còn sống ở đời này.
Từ đó, người Kitô hữu ấp ủ niềm tin về sự sống vĩnh cửu tương lai, mặc dù điều
đó nằm ngoài tầm với, vượt lên khả năng suy nghĩ, và tưởng tượng của con người.
Như thế, tương lai của con người và thế giới tạo thành được đặt nền tảng trọn vẹn
nơi mặc khải trong Đức Kitô. Quà tặng đức tin đã khai mở viễn tượng bình an của
ơn cứu độ và niềm hy vọng được thông dự vào sự sống, vào vinh quang của Đức
Kitô, dù người Kitô hữu phải trải qua những thử thách trong đời sống hiện sinh.
Trong các thử thách, điều giằng xé con người nhất chính là sự chờ đợi “thời
gian viên mãn”, thời gian có sức thâu hội và soi sáng cả quá khứ lẫn tương lai.
Hơn nữa, sự sống vĩnh sinh là thực tại đã được ban cho con người rồi, mà vẫn
chưa hoàn tất, nên người Kitô hữu còn mang trong mình cuộc thương khó hay sự chết
của Đức Kitô và chờ mong ngày phục sinh. Và đây là lời giải đáp có ý nghĩa cứu
độ chung cuộc cho mọi thử thách gian truân và đau khổn khốn cùng nơi con người.
Do đó, người Kitô hữu luôn ý thức mạnh mẽ rằng đời sống hiện tại được bao trùm
bởi ơn cứu độ cánh chung, vì có sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, đặc biệt là hồng
ân của Thánh Thần đã được tuôn đổ vào lòng các tín hữu. Niềm hy vọng này càng
thêm chắc chắn khi được thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Thần Khí ngự trong anh
em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã
làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự
trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).
[1] Cf. Joseph Ratzinger, Cánh Chung Luận- sự chết và đời sống vĩnh cửu,
Nxb Tôn Giáo, 2013. 80. (Bản dịch Việt ngữ của Lm Aug Nguyễn Văn Trinh).
[2] GLHTCG. 469. (Thánh
I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 19, 1: SC 211,374 (PG 7,939))
[3] Cf. GLCG, 654.
[4] Cf. Phao Lô Vũ Chí Hỷ,
SSS, Cánh Chung Luận “Đạo Lý về niềm hy vọng
Ki-tô giáo”, tài liệu lưu hành nội bộ, 2021. 10-11.
[5] Cf, Tôma Aquina, S. Th 3,
q.54,a.4.