Nguyên
tác: Flowers in the Desert : A
Spirituality of the Bible.
Tác giả: Demetrius Dumm, OSB.
Chuyển ngữ: Piô Phan Văn Tình, OMI.
Thông tin xuất bản: Pennsylvania: Saint Vincent Archabbey, 2001.
Sau
khi nói về các đặc sủng của Thần Khí và đã lưu ý rằng các đặc sủng không thể
được nhận biết hay triển nở nếu không có môi trường thích hợp, vì thế thánh Phaolô
đã nói tới một ân huệ cao cả và vượt trổi: “Tôi
xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (1Cr12,31). “Con đường” vượt trổi này hướng về ân
huệ đặc biệt của đức mến: “Giả như tôi có
nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có
đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang
xoảng” (1Cr13,1). Tất cả mọi nỗ lực con người đều là bịa đặt hoặc giả tạo
bề ngoài nếu như họ không cho thấy được lòng yêu mến. Điều này cũng tương tự
như ý nghĩa mà thánh Phaolô muốn quảng diễn khi nói rằng những công việc tốt
chẳng có ích gì nếu không có đức tin (Rm3,28). Đức tin khám phá sự thiện và
tình yêu của Thiên Chúa và do đó có khả năng thực sự trở thành một bản chất tốt
và yêu vô vị lợi. Bằng cách này, những việc tốt sẽ là một sự hướng dẫn và dấu
chỉ của đức tin và đức mến, nhưng đó là đức tin và đức mến khả dĩ làm nên một
con người độc nhất trước mặt Thiên Chúa và được thừa hưởng vương quốc của
Người. Trong thực tế, những việc tốt mà không có đức tin và đức mến thì có thể
là nguồn gây ra sự kiêu ngạo và đưa đến phạm tội. Cho nên, không lạ gì khi
thánh Phaolô gọi là: “Con đường vượt trổi
hơn cả” (1Cr12,31).
Trong
nội dung này, điều thánh Phaolô muốn diễn tả là đức mến đã vượt xa những gì
thường được gợi ý bởi chính ngôn từ đó trong văn hóa bình dân của chúng ta. Đối
với thánh Phaolô, đức mến thiết yếu là vô vị lợi. Nó không phải là một ước muốn
chiếm hữu người khác cũng không đặt trên nền tảng sự hấp dẫn của họ. Đó là một
sự diễn tả sự thiện và chỉ tìm lợi ích của người khác, thậm chí nó chứa đựng cả
ý nghĩa “đánh mất” chính mình (hy
sinh). Tình yêu lệch lạc muốn người khác lệ thuộc, còn tình yêu chân thật muốn
người khác được tự do, ngay cả khi tự do ấy có thể khiến họ xa mình. Điều làm
cho tình yêu chân thật khả thể không phải là sự hấp dẫn nào khác ngoài chính sự
thiện, một sự thiện khám phá nhờ được yêu, được mọi người và Thiên Chúa yêu
trọn vẹn. Ai biết mở lòng mình ra cho tình yêu và sự thiện thì trở thành một
người đang yêu thực sự, để rồi tự nguyện chọn lựa vượt qua tình yêu ấy hầu đến
với mọi người. Muốn trở thành người đáng yêu thì phải trở thành người được yêu
trước.
Bởi
thế, khả năng yêu mến thật sự là ân huệ quan trọng nhất trong tất cả. Khi đã có
nó thì những đặc sủng khác được nhìn thấy bằng một con mắt sáng ngời và đạt
được một kết quả hoàn hảo. Khi vắng bóng đức mến, thì mọi đặc sủng khác được
coi là ích kỷ và sẽ phủ nhận, đồng thời khước từ hoặc chỉ đi tìm tư lợi. Thánh Phaolô
coi đức mến chân thật như là môi trường đặc biệt, ở đó các đặc sủng riêng có
thể được tìm thấy và có khả năng sinh sôi nảy nở có thể đạt tới tầm vóc viên
mãn. Đó là trái tim và linh hồn của một cộng đoàn Kitô hữu đích thực. Thực tế,
đó chính là sự hiện diện của Thần Khí trong cộng đoàn ấy. Vì Thần Khí là thần
khí của tình yêu, có khả năng làm cho mọi người trở nên đáng yêu và thật sự vô
vị lợi như Chúa Kitô.
Thánh
Phaolô tiếp tục liệt kê những đặc tính của ân huệ đức mến đặc biệt này. Cần chú
ý hai điều, cách riêng về những giá trị của đức mến chân thật: thứ nhất, chúng
không nhất thiết phải lãng mạn hoặc không nhất thiết là mối quan tâm chính
trong cảm xúc, và thứ hai là tất cả phải chứa đựng tự do và sự tin tưởng nơi
người đang yêu, điều này có nghĩa là chính người ấy đã được yêu. Tất cả những
đường lối sau đây đều được rút ra từ chương 13 trong thư thứ nhất của thánh Phaolô
gửi cho các tín hữu Côrintô.
“Đức mến thì nhẫn nhục”
(c.4). Theo nguyên ngữ đức mến là “đại
lượng”, là đón nhận người khác và những khác biệt của họ, đó là sự hiếu
khách và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội, không cảm thấy sợ hãi hoặc làm giảm
giá trị những đặc sủng mới lạ hay phi thường.
“Đức mến thì hiền hậu” (c.4).
Theo nguyên ngữ là “hữu ích” nghĩa là
giúp ích và có tính xây dựng, nhìn đời sống một cách tích cực và khao khát tìm
kiếm điều thiện, không phải là sự ăn bám hoặc khô chồi, mà chăm sóc người khác
và làm cho họ mạnh mẽ hơn.
“Đức mến không ghen tương”
(c.4). Đức mến chân thật không làm hao mòn hay hư hỏng những đặc sủng của người
khác bằng cách muốn họ không có được những đặc sủng ấy hoặc bằng cách làm cho
họ mặc cảm tội lỗi về vận mệnh tốt đẹp của họ. Đúng hơn, thưởng thức cách đúng
đắn những đặc sủng của họ. Điều này khả thi bởi vì người đang yêu hiểu rằng
mình cũng đang có những đặc sủng và do đó tự nguyện thưởng thức những phúc lành
của người khác. Tuy nhiên, cần biết đích xác rằng tất cả lợi ích có được đều do
các đặc sủng được tôn trọng còn tất cả đau khổ đều do đã khước từ các đặc sủng.
“Đức mến
không vênh vang” (c.4). Gốc tiếng Hy
Lạp gợi ý một sự nỗ lực diễn tả sự quan tâm đối với bản thân bằng những loại
khác nhau về sự tự phát triển. Điều này xuất phát từ sự bất an hoặc thiếu tin
tưởng. Bởi thế, một người cảm thấy cần mời mọc sự quan tâm chú ý đối với chính
mình vì sợ rằng mình hoàn toàn bị bỏ rơi và có cảm giác như không hiện hữu. Đức
mến chân thật thì bình tĩnh, tin tưởng và tự chủ, bao gồm cả kinh nghiệm tự do
của việc được yêu mến.
“Đức mến không tự đắc” (c.4).
Nguyên ngữ, đức mến thì không “dương
dương tự đắc” hoặc ngạo mạn. Đây là một cách khác của việc giải quyết sự
bất an. Thay vì tự phát ồn ào, thì người ta phải viện đến một sự độc lập giả
tạo và cao ngạo. Đó là một trò lừa bịp liều lĩnh vì nó đang cố bỏ qua những gì
là cần thiết nhất. Hơn nữa, đức mến chân thật bao gồm một cảm nhận về sự tin
tưởng, một sự tự do nội tại.
“Đức mến thì không bất lịch
sự” (c.4). Đức mến chân thật thì rất nhạy bén về
những hình thức khả dĩ làm cho mọi người cảm thấy thoải mái và an tâm. Nó xa
tránh hành xử không xứng hợp hay bất lịch sự, không phải vì hình thức hay sự
cứng nhắc nhưng vì hành xử như thế làm cho mọi người căng thẳng và tước đoạt
mất bình an mà họ đáng được hưởng. Bởi đó, đức mến sẽ tôn trọng phép xã giao
đúng đắn đơn giản vì đó là một cách cho thấy sự tôn trọng và quan tâm của người
này đối với người khác. Hình thức ăn diện bên ngoài và ứng xử nhã nhặn là những
cách quan trọng để nói với người khác rằng anh hay chị có giá trị và được tôn
trọng.
“Đức mến không tìm tư lợi”
(c.5). Bản văn gốc trình bày: “đức mến
không tìm gì riêng tư”. Đức mến chân thật không quy về mình hay lợi ích cá
nhân. Đó không phải là sự e dè và tự vệ. Đó là việc cảm thấy an tâm tự nhiên và
vì vậy có khả năng tìm đến với người khác. Không quan tâm thái quá tới việc
phạm lỗi, hiểu lầm hay có những vụng về…Đúng hơn, hành động một cách tự phát
như Đavit đã nhảy nhót trước hòm bia, quảng đại, tự nguyện và tự nhiên.
“Đức mến thì không nóng giận”
(c.5). Đây có thể là vén mở nhiều nhất trong tất cả những đặc tính của đức mến
chân thật. Đừng quá nhạy cảm cũng đừng trừng phạt người khác bằng cách làm cho
họ mặc cảm đáng trách để rồi gây ra những tổn thương. Luôn có một cám dỗ lớn,
đặc biệt nếu ai đó sống với những người dễ cảm, thì việc “trừng phạt” họ gây ra thương tổn, ngay cả khi rõ ràng vết thương
là do vô tình. Những người như thế đi đâu cũng mang những “dấu ấn” nghĩa là “sự yếu
đuối”, “cần đến sự quan tâm”, “có máu nghệ sĩ”. Đây là một thứ chẳng có
chút tình thương để thi hành bởi nó khiến cho mọi người phải đề phòng và coi
chừng, phá hủy sự tự nguyện và bình an. Cũng rất nguy hiểm bởi vì là khởi đầu
cho sự ẩn náu thiếu xây dựng của tính chất tự quy ích kỷ. Khi một người nào đó
khởi đầu khiển trách người khác và nuông chiều tính ích kỷ của mình thì người
ấy đã lìa xa sự trưởng thành và hoán cải, người ấy khước từ lời mời gọi hành
trình của Thiên Chúa.
“Đức mến không nuôi hận thù”
(c.5). Liên hệ gần gủi với tình ích kỷ là khuynh hướng ấp ủ những vết thương
cũ, có thật hoặc do tưởng tượng. Đức mến chân thật nhận thức rằng không ai có
thể trải nghiệm đời sống mà không bị thương hoặc đôi khi bị trừng phạt. Nhưng
nó không phóng đại và lệ thuộc vào những kinh nghiệm này, cũng không dùng chúng
như những lý do để trốn tránh những quyết định hay những công việc khó khăn.
Nói cách khác, không làm ra một hình tượng Saul, người đã mang điều dữ và đã
thuộc về nó. Đúng hơn, như Đavit, đã để cho sự dữ qua đi, biết gắn bó với điều
thiện trong đời sống, xa lánh sự bào chữa và biết nhận trách nhiệm, biết đếm
phúc lành, cố gắng tha thứ và quên đi những nỗi đau trong đời sống. Một lần
nữa, đức mến chân thật hàm chứa việc được yêu và được tự do, dùng tự do này để
chọn lựa cách đúng đắn!
“Đức mến không mừng khi thấy
sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật”
(c.6). Đức mến không vẽ ra sự thoải mái từ những bất hạnh của người khác bởi vì
nó không nhìn người khác như những kình địch hay những đối thủ cạnh tranh. Ai
thật sự yêu mến thì hoàn toàn an tâm, không coi may mắn tốt lành và thành đạt
của người khác như là mối đe dọa. Đúng hơn, đó là một lý do để vui mừng và tạ
ơn. Đức mến chân thật luôn lạc quan về cuộc đời qua những thăng trầm. Không
hoang tưởng, cũng chẳng biết mưu đồ tính toán. Nó là hình ảnh Đavit trong sự
tín thác vào thế giới của Thiên Chúa và mọi người của Thiên Chúa.
“Đức mến tha thứ tất cả, tin
tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”
(c.7). Đây là một kiểu dịch thật sự thoáng của một bản văn Hy Lạp khó. Người ta
có thể tranh luận về các chi tiết nhưng ý nghĩa chung thì đã minh nhiên: Đức
mến chân thật thắng vượt tất cả những thế lực tiêu cực và thiếu xây dựng trong
đời sống con người. Nó vô cùng lạc quan bởi vì nó đã chạm tới tình yêu toàn
năng của Thiên Chúa. Nó là một sức mạnh ẩn kín và kinh ngạc, có khả năng triển
nở trong nghịch cảnh và mạnh mẽ nhất khi xem ra chẳng còn nơi nào cho đức tin,
hy vọng và kiên trì. Loại đức mến này rời xa sự hấp dẫn lãng mạn vốn bị hủy
hoại bởi sự bất toàn. Loại đức mến này chiến thắng tất cả bởi vì nó trao ban
chứ hơn là đón nhận, bởi vì nó là bản chất của sự trao ban nguyên vẹn của Thiên
Chúa.
Quyền
năng quá hấp dẫn và tuyệt vời này của đức mến là kho tàng cao cả trong đời sống
con người. Ai sở hữu nó thì giàu sang, ai thiếu vắng nó thì vô cùng nghèo nàn.
Nó không thể bị mang đi hoặc bị cầm giữ, nó là ân huệ thuần khiết. Nhưng nó là
một ân huệ được dành tặng cho tất cả mọi người. Muốn đón nhận nó, thì cần phải
biết cởi mở trước ân huệ trong đời sống, cần phải tìm kiếm những đóa hoa và
uống tất cả vẻ đẹp của chúng, cần biết đếm những phúc lành nhưng biết quên
những nỗi đau. Sự sẵn sàng này đối với ân huệ trong đời sống sẽ trao ban sức
mạnh và tự do để chọn lựa trở thành món quà cho người khác. Do đó, món quà được
trao tặng là để trở thành quà tặng. Để trở thành một quà tặng không dễ chút
nào, thật sự có thể rất đau đớn tuy nhiên đó là mục đích có giá trị duy nhất
cho sự hiện hữu của con người và làm cho cộng đoàn hạnh phúc và bình an sâu xa.