CHIỀU KÍCH HIỆN SINH CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU | Thư viện Học viện Công giáo Việt Nam

CHIỀU KÍCH HIỆN SINH CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU




                                          Piô Phan Văn Tình STL-K4


DẪN NHẬP

Bí tích Thánh Thể không chỉ là Mầu nhiệm để tin, để cử hành, nhưng đặc biệt là một Mầu nhiệm được hiện thực trong cuộc sống thường ngày của các tín hữu. Thật vậy, đức tin, một đức tin sống động và cá nhân, không chỉ trong biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, nhưng còn trong ý nghĩa hiện sinh của Thánh lễ cho tôi, ở đây và lúc này. Chiều kích hiện sinh này rất cần thiết, một loại cửa ngỏ mở đi vào tương quan vừa huyền nhiệm vừa hiện thực, thành cơ hội gặp gỡ cá nhân với Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh, “biểu lộ cách linh động trong Thánh lễ, hướng về con người trong hoàn cảnh cụ thể của nó và con người đón nhận ý muốn ban ơn cứu độ của Người trong và nhờ Thánh lễ.”[1] Chính ở đó, người Kitô hữu được “cấm lấy mà ăn”, được sống trong mối hiệp thông và tương quan, được chạm tới chân trời tự do, được đi vào đời thường với cảm thức của Thánh Thể và ngược lại.

1. “Hãy cầm lấy mà ăn” (Mt 26,26; Lc 22,19; Tv 33)

Bí tích Thánh Thể là Nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là Trọng tâm và Tột Đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội[2]. Tùy bình diện mà chúng ta có thể nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác. Nhưng có điều hết sức quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là: Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có Thánh Thể, thì không có Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh, là Thân Mình Đức Kitô (x. 1 Cr 10,17).

Vì lý do này, ta không thể bàn về Bí tích Thánh Thể mà không sống. Thần học về Bí tích Thánh Thể không là một mớ lý thuyết, khô khan, khó hiểu, thậm chí kỳ dị nữa. Cho nên, thánh Augustino đưa ra giải pháp: “Nếu bạn không biết, thì hãy nếm thử”[3], nghĩa là tiên vàn phải ăn thì mới có thể “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Chúng ta nói về Bí tích Thánh Thể với tất cả lòng tin tưởng vì đó là “Mầu Nhiệm đức tin” như lời tựa Thông điệp của Đức Phaolô VI về Thánh Thể[4]. Mà đức tin là điều chúng ta lãnh nhận từ Hội Thánh, nên diễn từ thần học của chúng ta phải rất khiêm nhường, chăm chú, nài van, cởi mở và đón nhận. Thánh Justinô xác tín rằng: “Above all, beseech God to open to you the gates of light, for no one can perceive or understand these truths unless he has been enlightened by God and His Christ. – Tiên vàn hãy cầu nguyện, để các cửa dẫn tới ánh sáng mở ra cho các ngươi, vì không ai có thể thấy và hiểu, nếu Thiên Chúa và Đức Kitô của Người không cho hiểu”[5].

Một thần học gia đúng nghĩa là người biết quỳ gối cầu nguyện, nhất là trong ý nghĩa hiện sinh của việc sống Thánh Thể, thần học gia phải là người biết “cầm lấy mà ăn”, “cầm lấy mà uống”[6]. “Ăn và thưởng thức” (x. Mt 26,26; Lc 22,19; Tv 33), chúng ta sẽ thấy Thánh Thể là sự sống, là Tình Yêu, vì Thánh Thể chính là Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta trong Bí tích. Bề ngoài, giác quan chúng ta thấy bánh và rượu, nhưng khi lãnh nhận thì chúng ta lãnh nhận chính Chúa Kitô, với tất cả thân xác, linh hồn và thần tính, chúng ta đón nhận Chúa Kitô, Đấng đã yêu mến chúng ta và đã chịu chết vì chúng ta.

Chúng ta lãnh nhận với tất cả lòng yêu mến và biết ơn, vì Thiên Chúa đã ban Chúa Kitô cho chúng ta, vì Chúa Kitô đã tự hiến thân mình cho chúng ta. Mầu nhiệm đức tin ở đây có đối tượng là tình yêu: Tình Yêu của Thiên Chúa, Tình Yêu của Chúa Kitô. Mầu nhiệm đức tin trở thành Mầu nhiệm của lòng mến. Tiếp xúc với Chúa Kitô Thánh Thể, chúng ta biết Chúa bằng đức tin và yêu Chúa bằng lòng mến.

2. Hiệp thông và tương quan

Sự hiệp thông cụ thể trong tương quan với Chúa và với tha nhân làm sống động đức tin vào Bí tích Thánh Thể và làm cho sự kín múc từ Bí tích này không bao giờ khô cạn. Qua Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô đã trao ban chính mình Người cho con người, chính Người trao ban cho con người niềm vui để sống yêu thương như Người, và truyền cho con người hãy chia sẻ tình yêu chiến thắng của Người với anh chị em khắp nơi trên thế giới (x. Ga 15,12). Tình yêu hướng tới tha nhân chỉ có thể hiện thực trong và qua Bí tích Thánh Thể. Bởi đó, ba yếu tố tin, cử hành và sống là ba hiện thực của một sự hiệp thông Chúa Kitô. Sự hiệp thông Thiên Chúa được thể hiện qua đức tin vào việc tỏ mình của Thiên Chúa trong nhục thể nhân loại, tin vào lịch sử của Người Con đã nhập thể làm người cho tới đổ máu trên Thập giá, Đấng đã hiện thực tình yêu và dạy chúng ta yêu thương nhau như anh chị em của nhau. Cả hai, đức tin và tình yêu được thể hiện cách dấu chỉ trong bữa tiệc hiệp thông Thánh Thể. Vì thế, ba chiều kích tương quan với nhau: sự nhận thức về Ngôi lời hóa thành nhục thể, tình yêu nhập thể trong một con người cụ thể và việc cử hành Bí tích Thánh Thể.

Do đó, Bí tích Thánh Thể cần được xác tín vững chắc, phải được cử hành sốt sắng, và phải được sống cách mạnh mẽ trong Giáo Hội[7]. Vì Thánh Thể đích thực là một bữa tiệc, tiệc hiệp thông, hiệp thông giữa người rước lễ với chính Đức Kitô và qua Đức Kitô, với Thiên Chúa Ba Ngôi và với anh chị em mình. Trong bữa tiệc hiệp thông đó, Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Đây không phải là của ăn tượng trưng nhưng “Thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi là của uống thật” (Ga 6,55). Người là nguyên lý hiệp thông (x. 1Cr 10,14-22) tài bồi “bề dày nghĩa tình” và thiết lập tương quan bền chặt, chiều dọc với Ba Ngôi, chiều ngang với anh chị em[8].

Trong ý nghĩa đó, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã dành ưu tư đặc biệt cho những người có trách nhiệm liên quan tới việc cử hành Bí tích Hiệp Thông này:

“Các Linh mục, phó tế và tất cả những người đang thực hiện một tác vụ Thánh Thể, khi thực thi việc phục vụ này với sự quan tâm và có chuẩn bị, phải luôn tìm thấy trong đó sức mạnh và cảm hứng cần thiết cho hành trình nên thánh của bản thân và của cộng đoàn. Tôi khuyên nhủ các Kitô hữu giáo dân, và cách riêng các gia đình, hãy tìm kiếm không ngừng nơi Bí tích tình yêu của Đức Kitô năng lượng cần thiết để làm cho đời sống của họ thành một dấu chỉ đích thực sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Tôi yêu cầu tất cả các tu sĩ hãy biểu lộ bằng đời sống mang tính Thánh Thể của mình ánh huy hoàng và vẻ đẹp được thuộc trọn về Chúa.”[9]

3. Khao Khát Tự Do

Khao khát này kéo dài xuyên suốt toàn bộ chân trời của cuộc sống. Con người mong muốn tự quyết định về mọi việc liên quan đến gia đình, cá nhân và cuộc sống xã hội của họ. Mỗi đề nghị đưa ra cho họ phải được trình bày như một lời mời gọi mà họ có thể đồng ý hoặc khước từ chứ không thể là những áp đặt với những quy định cứng ngắc vô hồn. Con người ngày nay nhạy cảm hơn nhiều đối với những đề nghị đúng đắn tế nhị và khéo léo. Họ hướng tới một cách đáp trả thật đáng ngạc nhiên, một sự thỏa thuận kiên trì, khi họ có khả năng chọn lựa.

Như là một cách tưởng niệm và hiện diện, cử hành Thánh Thể cách thích nghi thật phù hợp để đáp lại mong đợi này. Trong Bí tích này, Chúa tự trở thành lương thực cho con người đang khao khát chân lý và tự do. Vì chỉ có chân lý mới thực sự làm cho chúng ta được tự do (x. Ga 8,36), nên Đức Kitô đã tự biến thành lương thực chân lý cho chúng ta[10]. Đức Kitô đích thực là Đấng mở ra trong tâm hồn mỗi người một không gian mà trong đó, người tham dự có thể phát triển mà không hạn chế, bởi vì đây là đường lối của tình yêu. Việc cử hành Thánh Thể có thể là giây phút qua đó lôi kéo được tính sáng tạo của người tham dự.

Nếu muốn sống Thánh Thể cách đích thực, người tín hữu sẽ còn phải đương đầu với nhiều thách đố khác trong xã hội hiện nay, vốn tìm kiếm hiệu quả bằng mọi giá, vun trồng sự thành công về vật chất. Vì vậy, Thánh Lễ đóng một vai trò chủ yếu trong cuộc đời người Kitô hữu giúp thỏa mãn niềm khao khát lớn lao của họ đối với Thiên Chúa, khao khát được triển nở trong tự do đích thực. Bởi vì chỉ có Người, Đấng hoàn toàn tự do hiến mình trong Thánh Thể, mới có thể giải thoát tâm hồn con người và làm cho họ được tự do hiến mình như Người[11].

Ý thức về nguyên lý sống mới mà Thánh Thể mang đến cho người Kitô hữu, họ sống ý nghĩa ngày Chúa Nhật như là nguồn tự do đích thực. Thật vậy, đời sống đức tin sẽ gặp nguy hiểm khi người tín hữu không còn cảm thấy khao khát tham dự vào việc cử hành Thánh Thể, là lúc tưởng niệm chiến thắng phục sinh, chiến thắng có ý nghĩa giải thoát và làm cho tự do. Tham dự vào cộng đoàn phụng vụ Chúa Nhật, cùng với mọi anh chị em làm nên một thân thể duy nhất trong Đức Giêsu Kitô, là đòi buộc của lương tâm Kitô hữu đồng thời cũng đào luyện lương tâm Kitô hữu. Mất ý thức về ngày Chúa Nhật như là Ngày của Chúa cần phải thánh hóa là triệu chứng mất đi ý thức chân chính của tự do Kitô hữu, sự tự do của những người con cái Thiên Chúa. Bởi vì, việc họ sống những ngày khác trong tuần như thế nào còn tùy thuộc vào điều họ đã cử hành vào “Ngày của Chúa” ra sao. Chúa Nhật là Ngày của Chúa, khi quy chiếu vào công trình sáng tạo; Chúa Nhật là Ngày của Đức Kitô với tư cách là ngày của sáng tạo mới và của hồng ân Thánh Thần mà Chúa Phục Sinh trao ban; Chúa Nhật là Ngày của Hội Thánh hiểu như là ngày cộng đoàn Kitô hữu họp nhau để cử hành; Chúa Nhật là Ngày của con người hiểu như là ngày vui mừng, nghỉ ngơi và bác ái huynh đệ[12].

Nhờ được nuôi sống bằng thân thể Đức Kitô, người tín hữu đi vào khung trời tự do của Thiên Chúa, khả dĩ giúp họ “đạt tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4, 13), và có khả năng mang tin vui đến cho những người khác. Khi thân xác người tín hữu được Kitô hóa bằng cách đón rước Thánh Thể, thì họ có nhu cầu trao tặng cho người khác trong sự phục vụ giữa đời thường.

4. Thánh Thể và đời thường

Trước đây, người tín hữu vẫn thường diễn tả việc tham dự Thánh lễ bằng kiểu nói “đi xem lễ”; cách nói này rất thụ động, tín hữu chỉ là những người ngoài cuộc, đứng xem diễn “thánh lễ”. Trước Công đồng Vaticanô II[13], Thánh lễ buộc phải dâng bằng tiếng Latinh, linh mục đứng quay lên, do vậy người tín hữu chẳng hiểu gì, chỉ thấy vị chủ tế “xì xào”.

Sau khi Công đồng Vaticanô II[14], cải cách phụng vụ, Thánh lễ được dâng bằng tiếng bản xứ, linh mục quay xuống cộng đoàn, người tín hữu được học hỏi và tham dự Thánh lễ một cách tích cực hơn. Giờ đây, chúng ta không còn phải là những người “xem lễ” nữa, mà là dâng lễ, tham dự Thánh lễ; vì Thánh lễ không phải là việc làm của riêng linh mục, nhưng là việc cử hành của cả Giáo Hội với Chúa Kitô là đầu, mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội, là chính Giáo Hội. Chính nhờ Thánh lễ mà Giáo Hội được quy tụ, và cũng chính nhờ Giáo Hội quy tụ mà có Thánh lễ.

Do đó, Thánh lễ vốn dĩ không tách biệt khỏi cuộc sống, có thể nói, tất cả mọi vấn đề của cuộc sống, “những vui mừng và hy vọng, âu sầu và lo lắng” của con người, đều là chất liệu, đều là của lễ để tiến dâng Thiên Chúa[15]. Người tín hữu thể hiện vai trò tư tế của mình bằng chính việc kết hợp và tiến dâng hy tế cuộc sống của mình, giữa trăm ngàn gian nan thử thách. Kết hợp lễ dâng này với hy tế của Đức Giêsu, Thánh lễ sẽ đem lại cho bản thân và mọi người ơn cứu độ đích thực. Vì Thánh lễ là nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, nên người Kitô hữu không chỉ dừng lại để chiêm ngắm, để tìm hiểu, để tin, nhưng còn phải sống Thánh Thể nữa.

Thế nhưng vẫn còn đó sự phân ly giữa đời sống đạo và cuộc sống giữa đời, giữa cử hành phụng vụ và những kinh nghiệm hằng ngày, phải chăng cũng một phần vì tính chất hiện sinh của cử hành phụng vụ, đặc biệt là Thánh Lễ, đã không được ý thức, đào sâu, hay ít nhất, không làm nổi bật đủ, vì thế nó thường mang tính chất “một cuộc lễ”, có khi rất đặc biệt, rất trang trọng…nhưng cũng rất lẻ loi, lạ lẫm với đời thường. Người ta khó có thể nhận ra những “nét người”, nét thân quen nơi Bí tích Thánh Thể: viếng thăm, gặp gỡ, chia sẻ, tâm sự, ấm cúng bên nhau.

Đàng khác, những nét sinh hoạt đầy chất người, xây dựng tình người cũng dần mất đi trong nền văn minh hiện đại: thời đại 4.0, thời đại du lịch, vui chơi, hưởng thụ, vô thần thực tiễn...Viếng thăm nhau, chỉ vì tình người, thật nhưng-không, không “nằm trong chương trình” nào cả, không nhằm “được cái gì” cả…dần dần thưa vắng. Cả những bữa cơm cũng thế, vội vàng hơn, hợp lý hơn…nhưng ít khi đủ mặt, có lẽ cũng do vậy mà đời sống gia đình ngày nay rất dễ tan rã.

Chính vì thế, cử hành Thánh Thể như một cuộc viếng thăm, một bữa ăn ấm cúng cũng là điều cần thiết cho việc canh tân lại đời sống con người. Kinh nghiệm thần linh gìn giữ, đào sâu, hoàn tất kinh nghiệm nhân linh. Cứ giả thiết rằng mai kia người ta không còn đến thăm nhau, chỉ cần điện thoại hay e-mail là đủ, và cũng chẳng còn giờ giấc nào để nói đến một bữa ăn chung, thì hẳn thật Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ là cơ may vô cùng quý giá cho nhân loại[16].

KẾT LUẬN

Thánh Thể, chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, chịu chết trên thập giá, phục sinh, là “Alpha và Ômega” (Kh 22,13), đã được mạc khải Kinh Thánh xác thực, mang ý nghĩa tạ ơn và ca ngợi Cha Trên Trời, Đấng giàu lòng thương xót. Thánh Thể trở thành Bí tích trong cuộc tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô “hôm qua cũng như hôm nay…” (Dt 13,8) trong thân thể Người là Hội Thánh. Nhờ quyền năng của Lời Người và Thánh Thần, Người hiện diện trọn vẹn, đích thực trong phụng vụ và giữa đời thường “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20), để con người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10) với Người và với nhau trong tự do của con cái Cha Trên Trời.

Vậy có một mầu nhiệm Thánh Thể được cử hành trong phụng vụ và cũng mầu nhiệm ấy được thực hiện trong đời sống. Thánh Thể của phụng vụ phải nuôi dưỡng Thánh Thể của đời sống, và Thánh Thể của đời sống phải làm cho Thánh Thể của phụng vụ được xác thực. Chiều kích hiện sinh này rất cần thiết, một loại cửa ngỏ mở đi vào tương quan vừa huyền nhiệm vừa hiện thực, thành cơ hội gặp gỡ cá nhân với Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh, “biểu lộ cách linh động trong Thánh lễ, hướng về con người trong hoàn cảnh cụ thể của nó và con người đón nhận ý muốn ban ơn cứu độ của Người trong và nhờ Thánh lễ.”[17]

 


BIBLIOGRAPHY

 

Kinh Thánh Cựu & Tân Ước. Do nhóm phiên dịch CGKPV. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.

Documents of Magisterium

Vatican II. Sacrosanctum Concilium. Ban hành ngày 4-12-1963.

------------. Gaudium et Spes. Ban hành ngày 7-12-1965.

  ----------. Presbyterorum Ordinis. Ban hành ngày 7-12-1965.

Đức Phaolô VI. Mysterium Fidei. Ban hành ngày 3-9-1965.

Đức Gioan Phaolô II. Dominicae Cenae. Ban hành ngày 24-2-1980.

-------------------------. Vita consecrata. Ban hành ngày 25-3-1996.

-------------------------. Ecclesia De Eucharistia. Ban hành ngày 17-4-2003.

-------------------------. Mane Nobiscum Domine. Ban hành ngày 7-10-2004.

Đức Bênêđictô XVI. Deus Caritas Est. Ban hành ngày 25-12-2005.

------------------------. Sacramentum Caritatis. Ban hành ngày 22-2-2007. 

Giáo lý Hội Thánh Công giáo. Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.

Bộ Giáo Luật 1983. Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2006.

Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích. Redemptionis Sacramentum. Ban hành ngày 25-3-2004.

Missale Romanum. Vatican: Vaticano, 1975. Bản Việt ngữ “Sách Lễ Rôma”. Uỷ Ban Phụng Tự trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

Other Documents

Aquinas, Thomas. Summa Theologiae.

Balasuriya, Tissa, omi. The Eucharist and Human Liberation. Orbis Book, 2004.

Bùi Văn Đọc. Linh Mục Là Ai. Hà Nội: Tôn Giáo, 2009.

----------------. Thần Học về Bí Tích Thánh Thể. Hà Nội: Tôn Giáo, 2009.

----------------. Thiên Chúa Ba Ngôi, Bí tích Thánh Thể. Hà Nội: Tôn Giáo, 1999.

Đỗ Xuân Quế. Thần Học Bí Tích. Văn Hóa Đức Tin, 2005

Galot, Jean. Euchariste Vivante. Không rõ nơi XB: NXB, 1988.

Justin. The First Apology. Translated by Thomas B. Falls. Washington: Catholic University of America, 2008.

-------. The Second Apology. Translated by Thomas B. Falls. Washington: Catholic University of America, 2008.

-------. Dialogue with Trypho. Translated by Thomas B. Falls. Washington: Catholic University of America, 2008.

Koch, Bearbeitet von Gunter. Bí Tích Học Qua Các Tác Giả. Dẫn nhập và tuyển chọn trong bộ Texe Zur Dogmatik, Verlag Styria, Graz, Uien, Koln, 1991.

Nguyễn Thế Thủ. Tìm Hiểu Các Bí Tích Công Giáo, tập 2. Tp. HCM: ĐCV Giuse, 2002.

Nguyễn Văn Trinh. Phụng Vụ Thánh Thể. Hà Nội: Tôn Giáo, 2008. 

Nguyễn Văn Tuyên. Đây Là Mầu Nhiệm Đức Tin. Hà Nội: Tôn Giáo, 2001.

Phạm Quốc Văn. Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu. Tp. HCM: Học Viện Đa Minh, 2010.

Phan Tấn Thành. Về nguồn, tập III-IV. Chân Lý, 2000.

--------------------. Đời Sống Tâm Linh, tập IX. Tp. HCM: Học Viện Đa Minh, 2011.

Rabner, K & Haeussling. The Celebration of The Eucharist. London: Burns and Oates, 1968.

Thành, Eli. Năm Nguồn Mạch Đời Sống Kitô Hữu. Hà Nội: Tôn Giáo, 2018.

Vũ Chí Hỷ. Thánh Thể, Hy Lễ Chúc Tụng Tạ Ơn, Bí Tích Tình Yêu, Nguồn Ơn Cứu Độ. Tp. HCM: Học Viện Đa Minh, 2012.

Zizioulas, John. Being As Communion. New York: St. Vladimir’s Seminary, 1997.

Dictionaries and Anthologies of Theology

Handbook of Catholic Theology. Wolfgang Beinert and Francis Schussler Fiorenza (ed.). New York: Crossroad, 1995.

Karl Rahner. “Die Vielen Messen and Das Eine Opfer”. Tạp Chí Thần Học Công Giáo, 1949.

The Anchor Bible Dictionary. Vol 4. 1st edition by David Noel Freedman. New York: Doubleday, 1992.

The New Dictionary of Theology. Joseph A. Komonchak (ed). Wilmington: Michael Glazier, 1987.



[1] Karl Rahner, “Die Vielen Messen and Das Eine Opfer”, Zeitschrift für katholische Theologie 71 (1949) (“The Many Masses and The One Sacrifice”, The Journal of Catholic Theology) 267 và 288.

[2] X. Công đồng Vatican II, Lumen Gentium, số 10-11.

[3] X. CCL 38, 290; Tv 33.

[4] X. Phaolô VI, Mysterium Fidei, (3-9-1965).

[5] Justin, Dialogue with Trypho, chapter 7.

[6] X. Phaolô Bùi Văn Đọc, Thần Học Về Bí tích Thánh Thể, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2009), tr. 6.

[7] X. Benedict XVI, Sacramentum Caritatis, số 94.

[8] X. Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 34-46.

[9] Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 94.

[10] X. Ibid., số 2.

[11] X. Tissa Balasuriya, omi, The Eucharist and Human Liberation, (Orbis Book, 2004), tr. 16-22.

[12] X. Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 73.

[13] X. Andre Đỗ Xuân Quế, Thần Học Bí Tích, tr. 418.

[14] Ibid., tr. 421-429.

[15] X. Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 1-10.

[16] X. Phaolô Bùi Văn Đọc, Thần Học về Bí tích Thánh Thể, tr. 110-111.

[17] Karl Rahner, “Die Vielen Messen and Das Eine Opfer”, Zeitschrift für katholische Theologie 71 (1949) (“The Many Masses and The One Sacrifice”, The Journal of Catholic Theology) 267 và 288.

Bí tích Thánh Thể

Labels:
Thư viện Học viện Công giáo Việt Nam