NỀN TẢNG THẦN HỌC CỦA SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO | Thư viện Học viện Công giáo Việt Nam

NỀN TẢNG THẦN HỌC CỦA SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO

 


Trước khi Chúa Giêsu được rước lên trời, ngài đã sai các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15) Lời này không chỉ là lệnh truyền cho sứ vụ truyền giáo mà chính Chúa Giêsu đã ủy thác cho Giáo hội, nhưng còn đặt nền tảng thần học quan trọng cho mọi nghiên cứu về lĩnh vực này, nhất là môn Truyền giáo học là môn học về truyền giáo và các hoạt động truyền giáo. Thật vậy, Thần học và truyền giáo có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Trong giới hạn, bài làm sẽ tóm lược cách khái quát nền tảng thần học của sứ vụ truyền giáo được xây dựng trên các nền tảng chính yếu: Ba Ngôi; Cứu Độ và Kitô học; Thánh Linh học; và Giáo Hội học.

  1. Nền tảng Ba Ngôi

Sứ mệnh truyền giáo là công trình của chính Thiên Chúa Ba Ngôi (missio Dei). Nếu trước Vaticanô II, nền tảng thần học của sứ vụ truyền giáo chỉ tập trung vào mệnh lệnh truyền giáo của Đức Kitô Phục Sinh (Mt 28, 19-20); thì sau Vaticanô II, Giáo hội tập trung vào mầu nhiệm Ba Ngôi – Thiên Chúa Ba Ngôi nơi nhiệm cục cứu độ.

Như vậy, nền tảng Ba Ngôi của truyền giáo được hiểu là truyền giáo được đặt nền tảng trên những sứ mạng thuộc về Thiên Chúa ngoại tại và trên Chúa Ba Ngôi như một sự hiệp thông của các Ngôi vị. Nói cách khác, sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội, tự bản chất và chính yếu, xuất phát từ Ba Ngôi và mang một cấu trúc có tính Ba Ngôi: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (x. LG 4). Chính từ Ba Ngôi mà sứ mạng được khởi sự và kết thúc. (x. Eph 1, 3-14; 2,18; LG 4, 48; AG 2). Ba Ngôi là nền tảng đầu tiên và cuối cùng của bản chất truyền giáo của Giáo Hội. (EA 31)

Một số tác giả Kitô giáo ngoài Công giáo cũng có những quan điểm bảo vệ cho nền tảng Ba Ngôi của sứ vụ truyền giáo. Đối với Giáo Hội Chính Thống, nền thần học này nhấn mạnh: “Chiều kích Ba Ngôi và Kitô không thể tách lìa nhau trong nền giáo hội học Chính Thống, bởi vì Giáo Hội càng là Giáo Hội của Chúa Kitô bao nhiêu thì càng là Giáo Hội của Chúa Ba Ngôi bấy nhiêu, và ngược lại.” Vicedom, trong quyển sách Missio Dei trứ danh đã viết: “Công cuộc truyền giáo mà chúng ta đang góp phần bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi”. Phía Tin Lành, nhà thần học Braaten thì nhận xét: Ba Ngôi không chỉ là cội nguồn mà còn là cùng đích của sứ mạng thừa sai của Giáo Hội. Giám mục Anh giáo Leslie Newbigin, cũng xác định rằng, chỉ trong cái khung của đức tin và tín điều về Ba Ngôi thì ta mới hiểu đúng đắn sứ mạng của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Tác giả này xác tín rằng tín điều về Ba Ngôi giúp cho Giáo Hội hiểu được và thực thi sứ mạng thừa sai của mình.

Như vậy, chính Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và cội rễ cho sự hiện hữu và sứ mạng thừa sai của Giáo hội (x. AG 2). Theo chiều hướng này, ta có thể nói rằng giữa Giáo Hội và Thiên Chúa Ba Ngôi có một mối liên hệ về bản thể, hay Giáo Hội là hình ảnh của Ba Ngôi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II trong RM 35 nói: mục đích cơ bản của truyền giáo là có thể làm cho người ta thông dự trong sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con; sự sai phái thuộc Ba Ngôi Thiên Chúa của Hội Thánh ở trong sự liên hệ trực tiếp với bí tích thanh tẩy.

  1. Nền tảng Cứu Độ và Kitô học

Nội dung và cách thức của truyền giáo Kitô giáo được đặt nền trên sự am hiểu của Hội Thánh về Đức Giêsu Kitô và về giá trị cứu độ sự chết và phục sinh của Ngài. Do đó, Kitô học và cứu độ học xác định việc truyền giáo của Kitô giáo và là nền tảng của sứ vụ Kitô giáo.

Tuy nhiên, trong lịch sử Giáo hội, nền tảng này từng gặp khó khăn bởi thuyết đa nguyên cơ bản trong Kitô học. Thuyết này chủ trương rằng, mọi tôn giáo chỉ là những biến thể văn hóa thông thường hay là những kinh nghiệm bí ẩn của Đấng Siêu Việt. Tương tự, lời khẳng định truyền thống về tính duy nhất, tính phổ quát, tính tuyệt đối và tính chuẩn mực của sự mạc khải cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô là kết quả của điều kiện văn hóa. Điều này nên bỏ đi, vì nó cũng là kinh nghiệm đã xảy ra nơi các tôn giáo khác.

Trước các giáo thuyết ấy, Giáo hội luôn xác tín tính duy nhất mạc khải cứu độ của Đức Giêsu Kitô không phải là chuyện bịa đặt. Nhưng vì yêu và để cứu độ con người, Thiên Chúa đã tự tỏ lộ mình nơi Đức Giêsu Kitô. Các môn đệ và hết thảy những ai tin vào Ngài đều chân nhận rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ muôn dân. Đây là tính duy nhất đích thực của biến cố Giêsu, nên chắc chắn phổ quát và có tính cách quy chuẩn cho hết mọi người. Đồng thời, niềm tin vào sự duy nhất và phổ quát của ơn cứu độ và đặc tính chuẩn mực của nó không dựa trên những nguyên nhân chủ quan, nhưng nó dựa trên sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Với kinh nghiệm phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội hoán cải để được cứu độ và không ngần ngại loan báo cách chắc chắn về ơn cứu độ cho mọi người. (LG 9, AG 2) Từ đây, mở ra nẻo đường sứ vụ của Giáo hội, sứ vụ loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô, về cái chết và sự phục sinh của Người.

Chân lý và sứ vụ của Giáo hội tuôn chảy từ mầu nhiệm Phục Sinh. Vì thế, sứ vụ Kitô giáo dựa vào niềm tin nơi Đức Giêsu Kitô. Vì niềm tin vào Đức Giêsu Kitô như là Đấng cứu độ phổ quát là nền tảng của Giáo hội. Niềm tin và chân lý này thúc đẩy sứ mạng truyền giáo của Giáo hội, thúc đẩy những Kitô hữu đầu tiên trở thành những nhà truyền giáo. Có thể nói, không thể có sứ vụ Kitô Giáo nào mà lại không có sự loan báo về Đức Giêsu Kitô.

Sâu xa hơn, tính duy nhất của sự cứu chuộc Kitô giáo luôn tin tưởng cách chắc chắn rằng: Chỉ có “một Thiên Chúa duy nhất”, “một gia đình nhân loại” và “một Đấng Cứu Độ”. Và ơn cứu độ ấy đã được tỏ lộ nơi Đức Kitô và trải rộng cho hết mọi dân tộc. Vì, Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ, nhưng là những nhân vị liên đới với nhau, để họ thành một dân để phụng sự Ngài trong chân lý và thánh thiện (x. LG 9).

Tóm lại, Giáo hội sẽ không bao giờ có một sứ vụ Kitô giáo để phúc âm hóa mà không có sự loan báo về Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, đã sống lại và ngự bên hữu Chúa Cha. Bởi vì, “Đức Giêsu Kitô là con đường chính yếu cho Giáo hội. Tự chính Người là con đường dẫn tới nhà Chúa Cha” (RH 38). Như thế, lịch sử  nhân loại và cứu độ không đối lập nhau. Sự khôi phục muôn loài sẽ xảy ra trong Đức Kitô phục sinh, khi nhân loại và toàn thể thế giới được thành toàn cách trọn hảo trong Ngài.

  1. Nền tảng Thánh Linh học

Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh. Ngài dẫn dắt, thúc đẩy những định hướng của Hội Thánh theo ý định của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Công đồng Vaticanô II gọi hoạt động của Thần Khí trong lòng các dân tộc là “hạt giống của Lời”, ngay cả trong các hoạt động tôn giáo, trong cố gắng của nhân loại hướng về chân lý, hướng về điều thiện và hướng về Thiên Chúa. “Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua, theo cách thức chỉ có Thiên Chúa biết” (GS 22). Thánh Thần khơi dậy niềm thao thức của con người liên quan đến đời sống và tôn giáo, những thao thức này không chỉ phát sinh từ những hoàn cảnh ngẫu nhiên, nhưng còn từ chính cấu trúc của con người (x. RM 28).

Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong tâm hồn con người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các tôn giáo. “Ngài điều khiển những chuyển biến của thời gian và canh tân bộ mặt của trần gian với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này.” Hoạt động này được hiểu trong sự qui chiếu về Chúa Kitô (x. RM 29).

Thật vậy, sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần không phải là hai sứ mạng riêng rẽ. Vì chỉ có một sứ mạng cứu độ từ Thiên Chúa đối với trần gian, mục đích của Người là con người được thông phần vào sự sống đời đời của Thiên Chúa: “Mục đích cuối cùng của sứ vụ là làm cho người ta chia sẻ trong sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con” (RM 23). Vì thế, không có hai con đường cứu rỗi song song: “Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong biến cổ nhập thể, trong đời sống, cuộc khổ nạn, sự chết và cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, nay đang hoạt động trong Giáo Hội… Quả thật, chính Thánh Thần luôn luôn hoạt động, cả khi làm cho Giáo Hội được sống động hay thúc đẩy Giáo Hội loan báo Đức Kitô, cũng như khi tuôn đổ và làm tăng triển các hồng ân của Người nơi tất cả mọi người và mọi dân tộc. Người dẫn dắt Giáo Hội khám phá, cổ võ và đón nhận các hồng ân đó nhờ đối thoại.” (x. RM 29).

Trong việc truyền giáo của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần hằng đi trước, đồng hành và đi theo Hội Thánh. Ngài thúc bách các môn đệ sống chứng tá mở rộng ơn cứu độ đã được hoàn thành nơi Đức Kitô, để các ngài trở nên các nhà truyền giáo, những nhân chứng của sự phục sinh của Chúa Kitô. Đồng thời, Chúa Thánh Thần còn là người chủ xướng về sự truyền giáo của các tông đồ và của Hội Thánh.

  1. Nền tảng Giáo hội học

Nền tảng Giáo hội học của truyền giáo cần lưu ý hai điểm: Đức Kitô đã khai mạc Vương Quốc Nước Trời và Ngài sai Hội Thánh ra đi tiếp tục loan báo sứ mạng ấy. Có thể nói, Chúa Giêsu luôn tóm tắt toàn bộ sứ vụ của Ngài trong một cụm từ “Nước Trời”, mà Hội Thánh là hạt giống, dấu chỉ và là khí cụ để phục vụ cho việc loan báo đó.

Ý thức rõ vai trò của mình, công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: việc truyền giáo là bản chất tự nhiên của Giáo hội (AG 2). Định nghĩa này có nguồn gốc Kinh Thánh: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người”. (x.1 Pr 2, 9) Như vậy, truyền giáo là ý định của Thiên Chúa, không phải của Giáo hội. Hội thánh đã được thiết lập và sai đi như là khí cụ để loan báo và phục vụ kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa đã thực hiện nơi đức Kitô.

Trong vai trò là bí tích của Nước Thiên Chúa, Hội Thánh ý thức mình là hạt giống, dấu hiệu và dụng cụ của Vương Quốc Nước Trời. Hội Thánh biết trước Nước Trời một cách giới hạn (“đã rồi, nhưng chưa”). Do đó, Hội Thánh loan báo Nước Trời và mời tất cả mọi người chấp nhận Nước ấy. Hội Thánh cũng làm chứng cho những giá trị của Nước Trời như vui mừng, bình an và công bình. Thật vậy, Hội Thánh thời ban đầu đã hiểu chính mình như một hoạt động truyền giáo – đó là đang đi theo Đường Đức Giêsu (x. Cv). Các tín hữu tin tưởng rằng họ là một dân đã được sai đi: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Sự sai đi của Hội Thánh tiếp nối sự sai đi của chính Đức Giêsu.

Như vậy, việc loan báo Tin Mừng là ơn gọi nguyên thủy và là đặc tính của Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng làm cho mình được tăng triển trong sự hiệp thông khi có sự phát triển cơ cấu và sự lớn mạnh nội tại: sự lớn mạnh trong thân phận của người môn đệ Đức Kitô; sự lớn mạnh trong niềm tin, hy vọng và bác ái. Hơn nữa, Hội Thánh luôn hướng đến sự hợp nhất trong các bí tích, nhất là bí tích thanh tẩy và bí tích Thánh Thể. Đặc biệt, Hội Thánh có vai trò hiện diện trong môi trường văn hóa xung quanh của mình và làm cho mầu nhiệm của Đức Kitô hiện diện trong bối cảnh hội nhập văn hóa.

Nhận định và kết luận

Điểm lại vài nét về nền tảng thần học của sứ vụ truyền giáo, chúng ta có thể khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha” (AG 2). Giáo hội được sai đi loan báo Tin Mừng là để mang ơn cứu độ đến cho hết mọi dân tộc, để tất cả mọi người được nên một với nhau trong ‘Vương quốc Thiên Chúa.’ Sứ vụ đó không gì khác chính là loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Suốt chiều dài lịch sử của mình, Giáo Hội luôn ý thức về nhiệm vụ này để rồi đã, đang và sẽ tiếp tục “ra đi” trên mọi nẻo đường, vượt nhiều gian khổ, tìm nhiều phương thế, để Tin Mừng được loan báo đến tận cùng trái đất. (x. Cv 1,8)

Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2022 đã nói lên “giấc mơ truyền giáo” của ngài khi chia sẻ: “Tôi tiếp tục mơ về một Hội Thánh hoàn toàn truyền giáo, và một kỷ nguyên mới của hoạt động truyền giáo giữa các cộng đoàn Kitô hữu. Tôi lặp lại nguyện ước vĩ đại của ông Môsê cho dân Thiên Chúa trong hành trình của họ: “Ước gì toàn dân của Chúa đều là những ngôn sứ!” (Ds 11, 29).  Ước gì, điều mà chúng ta hằng xác tín: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.” (Ep 4,5), trở thành chân lý cứu độ và nguồn động lực cho mọi dấn thân của người Kitô hữu trong sứ vụ truyền giáo. Ước gì, với phép rửa đã được lãnh nhận, chúng ta sẽ ý thức rõ về vai trò và trách nhiệm của người Kitô hữu là ngôn sứ, chứng nhân, người truyền giáo của Chúa. Chúng ta sẽ tiến bước trong Thần Khí để Tin Mừng của Thiên Chúa được loan báo đến tận cùng trái đất cho muôn người được hưởng ơn cứu độ.

Anna Thúy Hồng STB-K2

Truyền giáo

Labels:
Thư viện Học viện Công giáo Việt Nam